Học Duyên Hệ Tỳ kheo Giác Lộc

11/06/2023 - 15:46   256

HỌC DUYÊN HỆ

Lý pháp trong Duyên hệ (paṭṭhāna) thực là bao la, sâu thẳm. Muốn hiểu thấu đáo phải học từ giáo trình Vi diệu pháp từ thấp lên cao. Do đó ít người có dịp nếm hương vị cao quý trong Duyên hệ. Bài viết này là phần kết luận Duyên hệ trong bộ luận Abhidhammattha Saṅgaha. Đọc qua bài này, dù kiến thức Vi diệu pháp chưa sâu, chúng ta cũng sẽ hiểu về các pháp hữu vi liên quan danh sắc, ngũ uẩn trợ duyên và được trợ duyên như thế nào. Đó là quy luật nhân và quả trong duyên hệ. Nếu trong thiền quán, hiểu về sự sinh diệt của danh sắc là công việc thiết yếu thì nội dung của bài viết này sẽ trợ giúp cho hành giả thiền quán hiểu về cách sinh diệt của danh sắc phải đi qua từng giai đoạn, từng chi tiết như thế nào, từ đó việc tu quán được củng cố và tiến đến việc từ bỏ thân kiến, tự chứng nghiệm “tất cả các pháp là vô ngã”.

KẾT LUẬN DUYÊN HỆ

1 Danh liên hệ với Danh theo 6 cách.

2 Danh liên hệ với Danh Sắc theo 5 cách.

3 Danh liên hệ với Sắc theo 1 cách.

4 Sắc liên hệ với Danh theo một cách.

5 Chế định, Danh và Sắc liên hệ với Danh theo hai cách.

6 Danh Sắc liên hệ với Danh Sắc theo 9 cách.

Phần I

1- Danh liên hệ với Danh theo 6 cách: Vô gián duyên (anantara paccaya), Đẳng vô gián duyên (samanantara paccaya), Tập hành duyên (āsevana paccaya), Tương ưng duyên (sampayutta paccayo), Vô hữu duyên (natthi paccaya), Ly khứ duyên (vigata paccaya).

Phần II

2- Danh liên hệ với Danh Sắc theo 5 cách: Nhân duyên (hetu paccaya), Nghiệp duyên (kamma paccaya), Quả duyên (vipāka paccaya), Thiền duyên (jhāna paccaya), Đạo duyên (Magga paccaya).

Phần III

3- Danh liên hệ với Sắc theo 1 cách: Hậu sinh duyên (pacchājāta paccaya).

Phần IV

4- Sắc liên hệ với Danh theo một cách: Tiền sinh duyên (purejāta paccaya).

Phần V

5- Chế định, Danh và Sắc liên hệ với Danh theo hai cách: Cảnh duyên (ārammaṇa paccaya), Cận y duyên (upanissaya paccaya).

Phần VI

6- Danh Sắc liên hệ với Danh Sắc theo 9 cách: Trưởng duyên (adhipati paccaya), Đồng sinh duyên (sahajāta paccaya), Hỗ tương duyên (aññamañña paccaya), Y duyên (nissaya paccaya), Vật thực duyên (āhāra paccaya), Căn duyên (indriya paccaya), Bất tương ưng duyên (vippayutta paccaya), Hữu duyên (atthi paccaya), Bất ly khứ duyên (avigata paccaya).

----------

Phần Quảng Diễn I, II, III, IV, V, VI

----------

HỌC DUYÊN HỆ

Duyên hệ là sự liên hệ giữa năng duyên và sở duyên.

Năng duyên (Paccayadhamma) là pháp trợ duyên hoặc tạo điều kiện cho sở duyên phát sinh, còn gọi là pháp nhân.

Sở duyên (paccayuppannadhamma) là pháp được trợ gíúp, được sinh lên do nhờ năng duyên, còn gọi là pháp quả.

Mãnh lực duyên (paccayasatti) là sức mạnh, năng lực mang lại quả hoặc làm cho quả thành tựu. Trong 24 duyên, mỗi duyên có mãnh lực đặc biệt được biểu hiện trong năng duyên giúp cho sở duyên phát sinh. Gọi là duyên hệ giữa nhân và quả chính là có sự hiện diện của mãnh lực duyên, nó giúp cho năng duyên tạo ra sở duyên.

Chúng ta thấy chế định có thể làm năng duyên nhưng không bao giờ làm sở duyên. Bởi vì chế định không có thực, không phải là pháp chân đế hữu vi, cho nên chế định không có sinh diệt. Không có sinh diệt thì làm sao sinh lên được, cho nên không làm sở duyên. Cũng vậy, Niết bàn là pháp chân đế vô vi, là có thực, nhưng không sinh diệt như pháp hữu vi, cho nên Niết bàn làm năng duyên, nhưng không làm sở duyên. Không có pháp nào có thể trợ duyên cho Niết bàn sinh lên, vì Niết bàn là vô duyên.

Danh liên hệ với Danh theo 6 cách

Vô gián duyên (anantarapaccaya), Đẳng vô gián duyên (Samantarapaccaya)

Vô gián duyên: A = không, antara = khoảng trống. Anantara nghĩa là không có khoảng trống.

Năng duyên trợ cho sở duyên không có khoảng trống xen vào giữa. Danh trợ cho danh không có danh khác xen vào giữa gọi là vô gián duyên.

Trừ tử tâm A la hán, tất cả danh pháp khác diệt, trợ duyên cho sự phát sinh lập tức của tâm kế tiếp và tâm sở tương ưng không có khoảng trống goi là vô gián duyên. Không có danh pháp khác xen vào giữa danh pháp trước sau khi diệt và danh pháp sau.

17 sát na tâm trong lộ ngũ môn

Lộ nhãn môn

(1) Hộ kiếp vừa qua (atīta bhavaṅga, (2) Hộ kiếp rúng động, (bhavaṅga calāna), (3) Hộ kiếp dứt dòng (bhavaṅga upaccheda), (4) Ngũ môn hướng tâm (pañcadvāravajjana), (5) Nhãn thức (cakkhuviññāṇa), (6) Tâm tiếp thu (sampaṭicchaṇa), (7) Tâm quan sát (santīraṇa), (\"😎\" tâm xác định (voṭṭhapana), (9-10-11-12-13-14-15) Bảy tâm tốc hành (javana), (16- 17) Hai tâm na cảnh (tadālambaṇa).

Nhãn thức là tâm quả vô nhân cùng với các tâm sở tương ưng vừa diệt làm năng duyên trợ cho Tâm tiếp thu là tâm quả vô nhân và các tâm sở tương ưng làm sở duyên phát sinh theo vô gián duyên. Nơi đây nhãn thức sinh và diệt làm vô gián duyên cho tâm tiếp thu phát sinh.

Tâm tiếp thu là tâm quả vô nhân và các tâm sở tương ưng vừa diệt làm năng duyên trợ cho tâm quan sát là tâm quả vô nhân và các tâm sở tương ưng là sở duyên phát sinh theo vô gián duyên. Nơi đây tâm tiếp thu vừa diệt làm vô gián duyên cho tâm quan sát phát sinh.

Những tâm còn lại trong lộ ngũ môn nêu trên cũng nối nhau sinh diệt. Tâm trước làm năng duyên cho tâm kế tiếp phát sinh bằng mãnh lực vô gián duyên.

Trong lộ nhĩ môn, tỷ môn, thiệt môn, thân môn cũng sinh diệt như trên.

Một tâm là một sát na tâm khi sinh lên bắt cảnh rồi diệt chớp nhoáng. Khi chúng ta thấy, nghe. Chúng ta nghĩ rằng cùng lúc thấy và nghe. Thực tế là có lộ tâm nhãn môn và lộ tâm nhĩ môn diễn ra và còn có lộ tâm ý môn nữa. Vì các sát na tâm sinh diệt rất nhanh nên có sự nhận lầm là cùng lúc xảy ra.

PHÁP THIỆN TRỢ CHO PHÁP THIỆN THEO VÔ GIÁN DUYÊN

Tốc hành tâm (javana) thiện thứ nhất trợ duyên cho Tốc hành tâm thiện thứ hai.

Tốc hành tâm thiện thứ hai trợ duyên cho Tốc hành tâm thiện thứ ba.

Tốc hành tâm thiện thứ ba trợ duyên cho Tốc hành tâm thiện thứ tư.

Tốc hành tâm thiện thứ tư trợ duyên cho Tốc hành tâm thiện thứ năm.

Tốc hành tâm thiện thứ năm trợ duyên cho Tốc hành tâm thiện thứ sáu.

Tốc hành tâm thiện thứ sáu trợ duyên cho Tốc hành tâm thiện thứ bảy.

PHÁP THIỆN TRỢ CHO PHÁP VÔ KÝ THEO VÔ GIÁN DUYÊN

Vô ký (abyākata) là không phải pháp thiện, không phải pháp bất thiện. Vô ký gồm có tâm quả và tâm duy tác.

Tốc hành tâm thiện thứ bảy trợ duyên cho na cảnh thứ nhất. (Na cảnh thuộc tâm quả, cho nên là vô ký)

PHÁP BẤT THIỆN TRỢ CHO PHÁP BẤT THIỆN THEO VÔ GIÁN DUYÊN

Nếu 7 tốc hành tâm là bất thiện thì tốc hành tâm bất thiện thứ nhất trợ duyên cho tốc hành tâm thiện thứ hai v. v…

PHÁP BẤT THI ỆN TRỢ CHO PHÁP VÔ KÝ THEO VÔ GIÁN DUYÊN

Tốc hành tâm bất thiện thứ bảy trợ duyên cho na cảnh thứ nhất.

PHÁP VÔ KÝ TRỢ CHO PHÁP VÔ KÝ THEO VÔ GIÁN DUYÊN

Tâm xác định trợ duyên cho Tốc hành tâm duy tác thứ nhất. (tâm xác định là duy tác vô nhân thuộc vô ký, duy tác A la hán cũng vô ký)

7 tốc hành tâm của A la hán là vô ký vì tâm của A la hán là duy tác. Tốc hành tâm duy tác thứ nhất trợ duyên cho tốc hành tâm duy tác thứ hai v.v…

Tốc hành tâm duy tác thứ bảy trợ duyên cho na cảnh thứ nhất

Na cảnh thứ nhất trợ duyên cho na cảnh thứ hai

PHÁP VÔ KÝ TRỢ CHO PHÁP THIỆN THEO VÔ GIÁN DUYÊN

Tâm xác định trợ duyên cho tốc hành tâm thiện thứ nhất

PHÁP VÔ KÝ TRỢ CHO PHÁP BẤT THIỆN THEO VÔ GIÁN DUYÊN

Tâm xác định trợ duyên cho tốc hành tâm bất thiện thứ nhất

TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT

THIỀN DIỆT THỌ TƯỞNG

Vị A na hàm và A la hán nhập thiền diệt thọ, tưởng, trong vòng 7 ngày danh pháp dừng lại. Khi xuất thiền diệt, tâm thiện phi tưởng phi phi tưởng xứ đã diệt cách đó 7 ngày làm năng duyên cho tâm quả A na hàm theo vô gián duyên.

SẮC TỤC SINH

Người đắc ngũ thiền vô tưởng tục sinh vào cõi vô tưởng chỉ có sắc tục sinh. Vị Phạm thiên vô tưởng chỉ có sắc không có danh và tuổi thọ là 500 đại kiếp. Sự tục sinh trở lại cõi người của vị vô tưởng thì tử tâm trước khi sinh vào cõi vô tưởng cách đó 500 đại kiếp làm năng duyên cho tâm tục sinh cõi người theo vô gián duyên.

Hỏi: Nếu chỉ có sắc làm sao có thể tạo ra tục sinh làm một Phạm thiên?

Đáp: Do mãnh lực của thiền thứ năm đề mục vô tưởng, sau tâm tử ở cõi người lập tức có sắc tục sinh làm Phạm thiên vô tưởng. Mãnh lực của thiền thứ năm là nghiệp lực tạo ra sắc tục sinh. Một Phạm thiên vô tưởng sống đến 500 đại kiếp với nhiều tư thế như đứng, nằm, ngồi bất động như tượng đá, nhưng khác tượng đá hoàn toàn vì vị này là một chúng sanh, có sắc nghiệp là bọn sắc mạng quyền.

Khi giải thích về sắc tục sinh, chú giải nêu ra “Giống như mũi tên bị bắn đi nhờ lực đẩy của dây cung. Lực đẩy ở đây là nghiệp lực. Cây cung bị bắn đi là tục sinh”.

Nghiệp lực tạo ra tục sinh làm chúng sanh có đủ 5 uẩn. Nghiệp lực tạo ra tục sinh làm chúng sanh chỉ có 1 uẩn, đó là chúng sanh vô tưởng, chỉ có sắc uẩn là bọn sắc mạng quyền. Nghiệp lực tạo ra tục sinh làm chúng sanh có 4 uẩn là tứ danh uẩn, đó là chúng sanh vô sắc. Cũng do nghiệp lực tạo ra chúng sanh có hình dạng khác nhau, nhiều hình dạng dị kỳ như loài ngạ quỷ. Do nghiệp lực nên chúng sanh có lạc, khổ khác nhau.

Một số người đọc còn thắc mắc điểm này, cho rằng vô gián là

không gián đoạn, vậy thì gián đoạn đến 7 ngày sao gọi là vô gián duyên. Đã thế gián đoạn đến 500 đại kiếp thì làm sao hiểu được.

Giải đáp: Vô gián (anantara) là không có khoảng trống để danh pháp khác không có cơ hội xen vào. Nếu dùng không gián đoạn theo nghĩa trên là đúng. Nhưng cho rằng có sự gián đoạn về thời gian trong hai trường hợp trên thì không gọi là vô gián. Hiểu như vậy là sai vì lý do sau đây:

Trong trường hợp nhập thiền diệt của vị A na hàm. Tâm cuối cùng là tâm thiện phi tưởng phi phi tưởng xứ trước khi nhập thiền diệt. Do năng lực của thiền có sự dừng lại của danh pháp. Khi xuất thiền diệt thì tâm thiện phi tưởng phi phi tưởng xứ đã diệt 7 ngày là tâm đầu tiên trợ duyên cho tâm quả A na hàm sinh lên. Dù cách 7 ngày, giữa năng duyên và sở duyên vẫn xảy ra lập tức, không có danh pháp khác xen vào. Cho nên mãnh lực của vô gián duyên vẫn có tác dụng và không sai định luật diễn tiến của tâm (cittaniyāma).

Trong trường hợp của vị vô tưởng, tử tâm đã diệt cách 500 đại kiếp. Khi vị Phạm thiên vô tưởng hết tuổi thọ thì cái tâm cuối cùng cách 500 đại kiếp là tử tâm lúc là người lại là tâm đầu tiên trợ duyên cho tâm tục sinh làm người hoặc chư thiên dục giới. Do đó tử tâm và tâm tục sinh vẫn xảy ra lập tức theo vô gián duyên. Lúc đó không có gì gọi là gián đoạn.

Nơi đây cần hiểu thêm là tử tâm đó của phàm nhân khi tục sinh cõi vô tưởng chỉ có sắc do năng lực thiền làm cho danh tạm ngừng lại, không phải diệt hoàn toàn. Tử tâm đó phải làm vô gián duyên cho tâm tục sinh là danh, trừ ra tử tâm của A la hán mới không làm vô gián duyên mà thôi vì vị ấy đã chấm dứt tục sinh.

Đẳng vô gián duyên (samantarapaccaya)

Vô gián duyên và Đẳng vô gián duyên chỉ khác tên gọi nhưng không khác nhau về ý nghĩa. Dùng Đẳng vô gián duyên để thích hợp với người nghe. Saṃ là đúng đắn . Samantarapaccaya nghĩa là duyên vô gián đúng đắn theo định luật của tâm (cittaniyāma) trong các lộ tâm ngũ môn, ý môn.

Vô gián duyên và Đẳng vô gián duyên diễn tả danh pháp nối nhau sinh diệt từ vô lượng đời sống đến hiện tại và tương lai, vì thế mới có việc nhớ tiền kiếp, việc những thiên tài xuất hiện và tính tình ngu, trí sai khác của nhân loại.
--------

GIẢI THÍCH TỪ NGỮ

(Phần này sẽ giúp quý vị đi sau chạy kịp quý vị đi trước)

Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức có 10 tâm, gọi là ngũ song thức, tức là 5 tâm quả thiện vô nhân và 5 tâm quả bất thiện vô nhân.

Tâm (citta): biết cảnh gọi là tâm, một tâm khởi lên đều phải bắt một cảnh nào đó.

Tâm sở (cetasika) còn gọi là sở hữu tâm): yếu tố thuộc về tâm, đồng sinh, đồng diệt, đồng biết một cảnh và đồng nương một vật với tâm.

Tâm và tâm sở gọi là danh pháp.

Sát na (khaṇa) thời gian rất ngắn của một tâm. Tuổi thọ của 1 tâm là 1 sát na. Tuổi thọ của một sắc pháp là 17 sát na. Trong thời gian một cái nháy mắt có hằng tỷ sát na sinh diệt.

Lộ ngũ môn đầy đủ có 17 sát na. Vì lộ này bắt cảnh sắc pháp, tuổi thọ của một sắc pháp bằng 17 sát na tâm. Như trường hợp lộ nhãn môn, trọn lộ tâm là 17 sát na. Đến sát na thứ 17 thì sắc pháp là cảnh sắc diệt. 17 sát na là thời gian để các tâm trên lộ ngũ môn bắt một cảnh sắc pháp.

Cảnh sắc pháp là cảnh chân đế, cho nên khi lộ nhãn môn đi trọn lộ trình, cũng không thể biết cảnh sắc đó là hoa hồng, hoa sen, người nam, người nữ. Phải đợi đến vài lộ ý môn thì danh, nghĩa chế định mới xuất hiện.

Hộ kiếp (bhavaṅga), còn gọi là hữu phần. Bhava là sinh tồn. Aṅga là yếu tố, chi phần. Dịch hộ kiếp là cách dịch lão luyện của Đại trưởng lão Tịnh sự, vì bhava là kiếp sống, kiếp sinh tồn. Thêm chữ hộ để nói lên ý nghĩa duy trì kiếp sống. Kể từ lúc tục sinh là khởi đầu kiếp sống cho đến tử tâm là chấm dứt kiếp sống. Khi chưa có cảnh hiện bày thì dòng hộ kiếp tiếp tục trôi chảy và bắt cảnh cũ của đời sống trước. Đôi khi có người xem hộ kiếp như tiềm thức, hoặc vô thức, nhưng ý nghĩa của bhavaṅga thâm sâu hơn vì nó ảnh hưởng đến nghiệp của đời sống trước. Tính tình, khả năng phát triển thiền, đạo quả nơi một cá nhân đã được định hình nơi hộ kiếp. Tâm tục sinh, tâm hộ kiếp và tâm tử là cùng loại.

Hộ kiếp vừa qua: Khi chưa có cảnh thì dòng hộ kiếp tiếp tục sinh diệt một cách phẳng lặng. Khi có cảnh xuất hiện, trường hợp này là cảnh nhãn môn thì hộ kiếp trôi qua một sát na.

Hộ kiếp rúng động: hộ kiếp rúng động khi cảnh sắc chạm vào nhãn môn.

Hộ kiếp dứt dòng: dòng hộ kiếp bị chặn lại

Hộ kiếp rúng động và hộ kiếp dứt dòng là hai hộ kiếp bị lay động, ví như có một vật chạm vào dòng sông đang phẳng lặng làm nó dợn sóng. Hộ kiếp rúng động thứ hai có tên là hộ kiếp dứt dòng vì đến đây dòng hộ kiếp bị chặn lại và được thay vào là những tâm lộ. Tâm đầu tiên trên lộ tâm là ngũ môn hướng tâm (còn gọi là khán ngũ môn), hướng đến cảnh sắc pháp.

Ngũ môn hướng tâm: ở đây là nhãn môn hướng tâm, tâm đầu tiên trên lộ tâm, hướng đến cảnh sắc

Nhãn thức: là tâm quả vô nhân thọ xả, thiện hoặc bất thiện. Nhãn thức thấy cảnh sắc, nó chỉ biết có cảnh chạm vào mắt, nhưng chưa biết cảnh đó tốt, xấu ra sao.

Tâm tiếp thu: là tâm quả vô nhân thọ xả thiện hoặc bất thiện. Tiếp thu là tiếp nhận cảnh.

Tâm quan sát: là tâm quả vô nhân thọ xả thiện hoặc bất thiện. Trong tâm quan sát quả thiện vô nhân có thêm một tâm thọ hỷ. Quan sát là xem xét cảnh

Tâm quan sát còn có cách dịch khác: thẩm tấn, suy đạc.

Tâm xác định: xác định cảnh tốt, xấu (ở lộ ý môn, tâm này gọi là ý môn hướng tâm)

Tâm xác định còn có cách dịch khác: đoán định.

Tâm tốc hành: nghĩa là chạy nhanh trên cảnh, diễn tiến qua 7 sát na tâm. Nếu là tâm thiện hoặc bất thiện thì khả năng tạo nghiệp ở nơi các tâm tốc hành này.

Tâm tốc hành còn có cách dịch khác: đổng lực

Hai tâm na cảnh: Na cảnh là hưởng cảnh dư. Vì cảnh sắc và sắc vật (ở đây là nhãn vật) cùng tuổi thọ là 17 sát na, cho nên cả hai đồng diệt ở na cảnh thứ hai. Sau na cảnh thứ hai dòng hộ kiếp tiếp tục trôi chảy, ví như sau khi dậy sóng dòng sông trở lại phẳng lặng.

Tâm na cảnh còn có những cách dịch khác: thập di, đồng sở duyên.

17 sát na tâm của lộ ngũ môn gồm có:

14 sát na tâm là những tâm lộ, 1 sát na tâm hộ kiếp vừa qua, 2 sát na tâm hộ kiếp rúng động. Tất cả là 17 sát na tâm của lộ ngũ môn cảnh rất lớn. Nơi đây rất lớn không phải to như quả núi. Rất lớn là cảnh rất gần. Ví như cảnh sắc hiện ra trước mắt, có thể thấy rõ ràng.

Theo quan niệm chung, chúng ta cho rằng mỗi khi thấy, nghe thì rất đơn giản, nhưng thực tế khi mắt thấy, tai nghe, một mình nhãn thức, nhĩ thức chưa hiểu gì về cảnh sắc, cảnh thinh đó. Phải đi qua lộ trình tâm và có nhiều tâm làm phận sự riêng trên lộ đó để hiểu cảnh đó. Chúng ta hiểu quá đơn giản bởi vì tâm sinh diệt quá nhanh.

18 giới

Giới (dhātu) là nguyên tố của các pháp chân đế.

-10 giới thô: Nhãn giới, tức là nhãn vật, nhĩ giới, tức là nhĩ vât, tỷ giới, tức là tỷ vật, thiệt giới, tức là thiệt vật, thân giới, tức là thân vật. Sắc giới, tức là cảnh sắc, thinh giới, tức là cảnh thinh, hương giới, tức là cảnh mùi, vị giới, tức là cảnh vị, xúc giới, tức là cảnh xúc (gồm có đất, lửa, gió).

- 5 thức giới: nhãn thức giới, tức là 2 tâm nhãn thức, nhĩ thức giới, tức là 2 tâm nhĩ thức, tỷ thức giới, tức là 2 tâm tỷ thức, thiệt thức giới, tức là 2 tâm thiệt thức, thân thức giới, tức là 2 tâm thân thức.

- Ý giới: 2 tâm tiếp thu và ngũ môn hướng tâm (khán ngũ môn).

- Ý thức giới: trừ ngũ song thức và 3 tâm ý giới, các tâm còn lại là ý thức giới.

- Pháp giới: tâm sở (còn gọi là sở hữu tâm), 16 sắc tế và Niết bàn

10 giới thô + 5 thức giới + ý giới + ý thức giới + pháp giới = 18 giới.

Thức giới, ý giới và ý thức giới. Là cách trình bày danh pháp tùy theo chức năng. Thức giới có chức năng tâm lý đơn giản, do vậy chỉ cần 7 tâm sở kết hợp. Ý giới có chức năng tâm lý nhiều hơn, do vậy cần 10 tâm sở kết hợp. Ý thức giới thì có chức năng tâm lý đa dạng và cần nhiều tâm sở kết hợp tùy theo loại tâm.

Bài viết năm 2023 khác