Thiền Quán - Chỉ Trích Và Phản Bác 02 Tỳ kheo Giác Lộc

24/02/2023 - 08:20   373

THIỀN QUÁN TỨ NIỆM XỨ (2)

Chỉ Trích Và Phản Bác

Tỳ kheo Giác Lộc

Dịch từ bản tiếng Anh

Satipaṭṭhāna Vipassanā

Criticisms And Replies

(Theo bản in 1979, Rangoon, Burma)

CHƯƠNG 3

SÁT NA ĐỊNH

Bác Bỏ Phần Đáp Trả Phản Bác I-I

Tác Giả: Sayādaw U Ñāṇuttara Agga Mahā Paṇḍita (Miến Điện)


Tôi đã đọc cẩn thận phần Đáp Trả của Ven. Kheminda Thera dành cho Phản Bác I-I, II, III và IV ca tôi vào tháng Ba, Tư, Năm và Sáu, 1967, trong các số báo của World Buddhism.

Tôi cũng đã đọc phần Đáp Trả ca Ven Kheminda dành cho phần Phản Bác II của tôi trong các số báo tháng bảy, tám và chín. Tôi sẽ giải quyết phần Đáp Trả II của vị ấy theo trình tự. Ở đây tôi sẽ tự hạn chế phần Đáp Trả của vị ấy dành cho phần Phản Bác I-II, III và IV của tôi.

Trong những bài này Ven. Kheminda, nói chung, tạo ra những cáo buộc và khẳng định sau đây:

1. Vị ấy bị thôi thúc, không phải bởi thiên kiến, nhưng bởi hướng dẫn của Đức Phật được nêu ra trong Mahāpadesa Sutta.

2. (a) Năm triền cái là những pháp làm suy yếu tuệ và vì thế quán (vipassanā ) chỉ có thể phát sinh khi các triền cái được từ bỏ. (b) Tứ niệm xứ nên được tu tập duy nhất sau khi đã từ bỏ các triền cái. Chúng có thể chỉ được từ bỏ bằng cách của thiền (jhāna) và vì thế thiền quán (vipassanā) nên được bắt đầu duy nhất sau khi có sự tu tập thiền (jhāna).
3. (a) Bất cứ hành giả nào, là người có cỗ xe chỉ (samathayānika) hoặc người có cỗ xe quán (vipassanāyānika), đều tu tập thiền chỉ (samatha) ở giai đoạn Tâm thanh tịnh. Và quán (vipassanā) bắt đầu với Kiến thanh tịnh, (b) chỉ duy nhất ở giai đoạn sau thì những tên gọi samathayānika vipassanāyānika mới xảy ra trong lần đầu tiên.
4. Sự tu tập Bát thánh đạo được diễn tả theo hai cách: (i) bằng cách của ba uẩn là giới uẩn, định uẩn và tuệ uẩn; (ii) bằng cách của bảy thanh tịnh. Trong cả hai phương pháp này sự tu tập quán bắt đầu ở giai đoạn thứ ba thuộc Kiến thanh tịnh. Trong khi đó hai giai đoạn đầu tiên đã được tu tập rồi.
5. Sau khi tu tập giới không thể có việc tu tập tuệ, bỏ qua định. Nếu quán (vipassanā) được tu tập không có thiền chỉ (samatha) thì những giai đoạn của Tâm thanh tịnh và Kiến thanh tinh sẽ bị đảo ngược
6. Quán (Vipassanā) không thể được tu tập trước khi có sự tu tập của Giới và Tâm thanh tịnh.  
7. Bởi vì (a) Tâm thanh tịnh phát sinh sau quán; (b) Tâm thanh tịnh được cho một định nghĩa mới; (c) Tâm thanh tịnh thế chỗ của Kiến thanh tịnh; (d) Ven.
Ñāṇaponika nói rằng điều này đã được Ven. Mahāsī Sayādaw đưa vào vào việc thực hành; nó được gọi là một phương pháp mới.
8. Trong câu dịch “vuttappakāraṃ samathaṃ anuppādetvāti” cái từ “trước” là sự đưa vào vô lý bởi vì cụm từ đó có nghĩa “chỉ là không có tạo ra thiền chỉ đã được nói đến”, eva có nghĩa “chỉ là”.
9. Duy nhất thiền định là chánh định (sammāsamādhi maggaṅga). Không có định này tri kiến như thực về các pháp (yathābhūtañāṇa-dassana) không thể có.
10. Định được tu tập sau quán được gọi là vipassanā sampayutta samādhi hoặc nibbedhabhāgiya samādhi. Nó không được gọi là Tâm thanh tịnh (citta visuddhi).
11. Cận hành (Upacāra), an chỉ (appanā ) và sát na (khaṇika) định không phát sinh sau quán
12. Chú giải Dhammadāyāda Sutta diễn tả duy nhất phạm vi tu tập đó về việc thực hành của hành giả bắt đầu với quán. Nó không bao phủ toàn thể phạm vi tu tập của vị ấy.
Nó không chạm đến kể cả hai giai đoạn tu tập đầu tiên của hành giả. Sự lầm lẫn tìm cách bao gồm trong từ ngữ Tâm thanh tịnh tất cả những hình thức của định mà phát sinh trong quá trình tu tập quán sát là do không xác định được phạm vi tu tập này.
13. Cittaṃ Samādahanto được giải thích trong Chú giải kinh này như đang được quan tâm duy nhất với người có cỗ xe chỉ (samathayānika), không phải với người có cỗ xe thuần quán (suddhavipassanāyānika). Vì thế khaṇika cittaekaggatā (sát na nhất tâm) được đề cập trong đó không liên quan với người có cỗ xe thuần quán.
14. Tâm thanh tịnh là nhân gần ca quán và không có nhân gần này, thì kết quả của nó, tức là Kiến thanh tịnh nơi mà quán bắt đầu, thậm chí có thể hiện hữu không?
Đó là một quán tưởng tượng mà lời dạy mới này nói về. Những gì lời dạy này dành cho hành giả chấp nhận phương pháp của nó là dừng lại sự tiến bộ của hành giả ở cuối Giới thanh tịnh.

Giờ đây tôi sẽ giải quyết những điểm được Ven. Kheminda đưa ra theo thứ lớp.

Trả lời số 1
Ven. Kheminda cam đoan với tôi rằng vị ấy bị thôi thúc, không phải bởi thiên kiến nhưng bởi những hướng dẫn được dạy trong Mahāpadesa Sutta. Đề cập đến quan điểm thiên lệch của vị ấy về Sát na định và Tâm thanh tịnh, tôi hỏi: “Vị ấy có bị thôi thúc bởi thiên kiến không?” Tôi không thể thấy bất cứ lý do gì vị ấy có thể biện minh quan điểm thiên lệch của mình như thế nào bằng cách cầu viện đến Mahāpadesa Suttā.
Thực ra, việc Đáp trả của vị ấy dành cho phần Phản bác I, II, III và IV của tôi chứa những luận điệu mà, nhìn chung, đi ngược lại hướng dẫn của Đức Phật trong kinh này. Điều này sẽ trở nên rõ ràng hơn trong những trả lời của tôi đối với những cáo buộc của vị ấy.
Xét theo hàng loạt trích dẫn ca kinh này, vị ấy không cho thấy hiểu biết rõ ràng về đoạn văn mà tạo ra điểm cốt yếu, trong đó Đức Phật hướng dẫn rằng, người ta phải chấp nhận đúng là Phật ngôn nếu chúng phù hợp với Pháp (Dhamma (Ti-piṭaka) và Luật, mà diệt trừ những phiền não như tham (rāga) và loại bỏ chúng nếu chúng không phù hợp như được diễn tả trong Mahāpadesa Sutta, Sañcetaniyavagga, Catukka Nipāta, Aṅguttara Nikāya Mahāvagga, Dīgha Nikāya.
Trả l
ời số 2 (A)
Ven. Kheminda viết rằng năm triền cái là những pháp làm suy yếu trí tuệ và vì thế quán (vipassanā) chỉ có thể xảy ra khi chúng được từ bỏ. Điều này phù hợp với hướng dẫn trong Mahāpadesa Sutta, và phải được chấp nhận không có bất cứ e dè nào.

Không phải Ven. Mahāsī Sayādaw cũng không phải tôi đã từng viết ngược lại. Mặc dù hoàn toàn rõ ràng rằng những bài viết của chúng tôi phù hợp với những lời dạy của Đức Phật, Ven. Kheminda không thể hiểu chúng, bị thiên kiến khi đưa ra cáo buộc rằng chúng tôi viết ngược lại. Cáo buộc này bộc lộ nhược điểm của vị ấy.

Trả lời số 2 (B)

Ven. Kheminda khẳng định rằng t niệm xứ nên được tu tập duy nhất sau khi từ bỏ các triền cái và rằng chúng có thể chỉ được từ bỏ bằng cách của thiền (jhāna) và vì thế thiền quán (vipassanā) nên được bắt đầu duy nhất sau khi tu tập thiền.

Những khẳng định này không phù hp với hướng dẫn của Đức Phật trong Mahāpadesa Sutta. Vì chúng đối nghịch hoàn toàn với hướng dẫn của Đức Phật nên tôi không thể chấp nhận chúng.

Tôi sẽ trả lời cả hai điểm cùng lúc. Nhiều đệ tử của Đức Phật, không có thiền (jhāna), đã trở thành A la hán sau khi từ bỏ năm triền cái bằng cách tùy quán tứ niệm xứ.

Sự thực này được nhiều người biết, phù hợp với những bài giảng của Đức Phật. Tuy nhiên, vì Ven. Kheminda không ý thức ngay cả sự thực phổ biến này nên tôi cảm thấy có bổn phận phải giải thích.

Có nhiều bài giảng trong đó Đức Phật giáo huấn cho các đệ tử đang mong chờ nghe những hướng dẫn về cách quán sát, đầu tiên an trú chính họ trong giới và kế đó tu tập tứ niệm xứ. Xét thấy rằng trong những bài giảng này Đức Phật không hề nói rằng các đệ tử phải tu tập định sau khi an trú chính họ trong giới, thực rõ ràng rằng các triền cái có thể được từ bỏ trong khi tu tập quán (vipassanā) mà không cần có thiền chỉ (samatha).

Khi các triền cái được từ bỏ, Tâm thanh tịnh chắc chắn được chứng đạt.
Ven. Kheminda nên suy xét kỹ đoạn kinh văn sau đây được trích từ Bhikkhu Sutta, Ambapāli Vagga. Satipaṭṭhāna Saṃyutta, Đức Phật đã thuyết như vầy cho vị tỳ kheo thỉnh cầu hướng dẫn cách quán sát:

Thế thì, này tỳ kheo, ông cần phải làm thanh tịnh những điều cơ bản trong các thiện pháp. Và những điều cơ bản trong các thiện pháp là gì? Chúng là giới thực sự thanh tịnh và có chánh kiến.
Giờ đây, này tỳ kheo, khi nào giới của ông sẽ thực sự thanh tịnh và có chánh kiến, này tỳ kheo, lúc đó nương vào giới, thiết lập trong giới, ông có thể tu tập t niệm xứ theo ba cách. Bốn là gì?

Ở đây này tỳ kheo, đối với nội thân, ông sống tùy quán thân trong thân, tinh cần, tỉnh giác và chuyên niệm, sau khi chế ngự ưu trong thế giới mà phát sinh từ tham. Hoặc đối với ngoại thân, ông sống tùy quán thân … sống tùy quán thọ trong các thọ … sống tùy quán tâm trong tâm … sống tùy quán pháp trong các pháp, tinh cần, tỉnh giác và chuyên niệm, sau khi chế ngự ưu trong thế giới mà phát sinh do tham…

Và tỳ kheo đó đã là một trong những A la hán nữa. (The Book of Kindred Sayings V.P.T.S. pages 121 and 122. III, I III. Monk)
Lại nữa, trong Bāhiya Sutta. Nālanda Vagga, Satipaṭṭhāna Saṃyutta, Đức Phật đã thuyết:
“Trong trường hợp như thế, này Bāhiya, ông phải làm cho thanh tịnh những điều cơ bản trong các thiện pháp. Và những điều cơ bản trong các thiện pháp là gì? Đó là giới mà thực sự thanh tịnh và có chánh kiến. Giờ đây, này Bāhiya, khi giới của ông sẽ là thực sự thanh tịnh và có chánh kiến, lúc đó, dựa vào giới, thiết lập trong giới, ông có thể tu tập tứ niệm xứ … và Bāhiya đã là một trong những A la hán nữa. (The Book of Kindred Sayings, V, page 145 XLVII, II, V. Bāhiya.)" (2)

Đức Phật đã thuyết tương tự trong Uttiya Sutta, Nālanda Vagga, Satipaṭṭhāna Saṃyutta ( ibid, page 146) (3)

Một lần nữa trong Pātimokkha Sutta, Amata Vagga, Satipaṭṭhānā Saṃyutta, Đức Phật đã thuyết:

“Nơi đây, này tỳ kheo, ông hãy sống tự chế ngự theo sự thu thúc của các giới bổn, được khéo trang bị theo phạm vi thực hành chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt và thực hiện các học giới, ông hãy tự học tập trong đó…Bấy giờ, này tỳ kheo, khi ông đã sống tự chế ngự …, lúc đó dựa vào giới, thiết lập trong giới, ông nên tu tập t niệm xứ … và tỳ kheo đó đã là một trong nhữngA la hán nữa. (The Book of Kindred Sayings, V, pages 163 & 164, XLVII, III, V, VI, obligation). (4).

Ven. Kheminda lẽ ra nên lưu ý và ghi nhớ rằng những bài giảng này không chứa bất cứ gợi ý nào về sự cần thiết trong sự tu tập thiền chỉ (samatha) để từ bỏ các triền cái trước khi người ta tu tập t niệm xứ.

Trong Duccarita Sutta, Amata Vagga, Satipaṭṭhāna, Saṃyutta, Đức Phật đã thuyết rằng các đệ tử phải tu tập giới bằng cách tránh xa ác hạnh và bằng cách tu tập thiện hạnh và sau khi thiết lập trong giới, tu tập t niệm xứ. Trong đó cho thấy rằng những ai mà thực hiện theo những hướng dẫn của Đức Phật đã chứng đạt A la hán. (5)

Trong tất cả bài giảng được đề cập ở trên Đức Phật đã hướng dẫn các đệ tử thiết lập chính họ trong giới trước tiên, và sau khi đã an trú trong giới, tu tập t niệm xứ. Đức Phật không hướng dẫn như được chủ trương bởi Ven. Kheminda,

là tu tập thiền (jhāna) với mục đích từ bỏ các triền cái trước khi bắt đầu tu tập tứ niệm xứ.

Xét theo sự việc này, thực là rõ như ban ngày rằng cái quan điểm thường được chấp nhận là giới sau khi đã được thiết lập, các triền cái được từ bỏ trong quá trình quán sát tứ niệm xứ đưa đến Tâm thanh tịnh, là phù hợp với những lời dạy của Đức Phật. Quan điểm của Ven. Kheminda cho rằng các triền cái chỉ có thể được từ bỏ bởi thiền (jhāna), không phải bởi quán sát tứ niệm xứ, là không phù hợp với các bài giảng đã nói trước cũng như với Mahāpadesa Sutta và vì thế đi ngược lại lời dạy của Đức Phật.
Ven. Kheminda bám vào quan điểm được quan niệm sai lạc và lặp lại nó trong những bài viết của vị ấy là đang chống lại thẩm quyền của Đức Phật.

Đối với những người như thế mà chỉ ra những gì phi Pháp là Pháp, những gì Pháp là phi Pháp, Đức phật đã thuyết thẳng thừng như vầy trong Pamādādi Vagga II, Eka Nipāta, Aṅguttara Nikāya “Hạnh như thế của họ là đưa đến sự đau khổ cho nhiều người”. Họ gây ra tội lớn và khiến cho Diệu pháp này biến mất”. (6) (The Book of Gradual Saying I page 13, 1, 10, 33. Not-Dhamma (a) (b)
Trong các bài giảng được đề cập ở trên, có lời phát biểu bằng những từ ngữ không thể lầm lẫn rằng chư tỳ kheo, như Bāhiya và Uttiya, sau khi thiết lập chính họ trong giới và tu tập tứ niệm xứ, đã chứng đạt quả A la hán. Do vậy, thực rõ ràng rằng sau khi thiết lập trong giới, người ta có thể bắt đầu quán sát trực chỉ tứ niệm xứ mà không cần phải tu tập định theo bất cứ phương tiện nào khác; và rằng sát na định, cận hành định và an chỉ định có thể được tu tập thích hợp trong quá trình quán sát tứ niệm xứ đưa đến Tâm thanh tịnh và thực chứng đạo quả trí (magga-phalañāṇa).

Về phương diện này, sát na định, cận hành định và an chỉ định có thể được tu tập trong quá trình quán sát tứ niệm xứ đã được phát biểu tích cực trong Sāla Sutta, Ambapāli Vagga, Satipaṭṭhāna Saṃyutta, cũng như trong Chú giải và Phụ chú giải.

“Này chư tỳ kheo, những ai là những tân tỳ kheo, xuất gia không lâu, những người mới đến trong Pháp và Luật này, những tỳ kheo như thế nên được khích lệ, khuyên nhủ và an trú, tu tập Tứ niệm xứ. Trong bốn cái gì và như thế nào ? (Chư vị nên nói như thế này:)

“Hãy đến, này các hiền giả, hãy sống quán thân trong thân (là vô thường) tinh cần, tỉnh giác và chuyên tâm, có tâm an tịnh, định tĩnh, nhất tâm, để tuệ quán thân như thực. Trong các thọ…trong tâm.. trong các pháp…như thực”.(Book of Kindred Sayings; V. page 123, III, I, IV, Sāla (7)

Chú giải kinh này giải thích như vầy:

“Chuyên tâm nghĩa là được hợp nhất bởi sát na định. “Định  tĩnh, nhất tâm”, nghĩa là được định tĩnh, nhất tâm bởi cận hành định và an chỉ định. Trong kinh này, Tứ niệm xứ được tu tập bởi những tỳ kheo mới thọ giới cũng như bởi những bậc A la hán có đạo hợp thế đi trước (pubbabhāga) thánh đạo quả và Tứ niệm xứ được tu tập bởi bảy sekha (những bậc hữu học) được kết hợp (missaka). (8)
-------
CHÚ THÍCH

(1) S. (III, 124) Tasmāt’iha tvaṃ bhikkhu ādim’eva visodhehi kusalesu dhammesu. Ko cādi kusalānaṃ dhammānaṃ? Sīlañca suvisuddhaṃ diṭṭhi ca ujukā. Yato kho te bhikkhu sīlañca suvisuddhaṃ bhavissati diṭṭhi ca ujukā, tato tvaṃ bhikkhu sīlaṃ nissāya sīle patiṭṭhāya cattāro satipaṭṭhāne tividhena bhāveyyāsi… Aññataro ca pana so bhikkhu arahataṃ ahosi.

(2) S, (III, 43) Tasmāt’iha tvaṃ bāhiya ādim’eva visodhehi kusalesu dhammesu… tato tvaṃ bāhiya sīlaṃ nissāya sīle patiṭṭhāya cattāro satipaṭṭhāne bhāveyyāsi … Aññataro ca panāyasmā bāhiyo arahataṃ ahosi.

(3) S. (III, 144). Tương tự đoạn Pāḷi ở trên.

4) S. (III, 163) Tasmāt’iha tvaṃ bhikkhu ādim’eva visodhehi kusalesu dhammesu. Ko cādi kusalānaṃ dhammānaṃ? Idha tvaṃ bhikkhu pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharāhi ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī, samādāya sikkhassu sikkhāpadesu. Yato kho tvaṃ bhikkhu pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharissasi ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī samādāya sikkhissu sikkhāpadesu, tato tvaṃ bhikkhu sīlaṃ nissāya sīle patiṭṭhāya cattāro satipaṭṭhāne bhāveyyāsi… Aññataro ca pana so bhikkhu arahataṃ ahosi.

5) S. (III, 164) Yato kho tvaṃ bhikkhu kāyaduccaritaṃ pahāya kāyasucaritaṃ bhāvessasi, vacīduccaritaṃ pahāya vacīsucaritaṃ bhāvessasi, manoduccaritaṃ pahāya manosucaritaṃ bhāvessasi tato tvaṃ bhikkhu sīlaṃ nissāya sīle patiṭṭhāya cattāro satipaṭṭhāne bhāveyyāsi… Aññataro ca pana so bhikkhu arahataṃ ahosi.

(6) A. (I,18) Ye te bhikkhave bhikkhū adhammaṃ dhammo’ti dīpenti te … dhammaṃ adhammoti dīpenti te bhikkhave bhikkhū bahujanaahitāya paṭipannā bahujanaasukhāya bahuno janassa anatthāya ahitāya dukkhāya devamanussānaṃ, bahuñca te bhikkhave bhikkhū apuññaṃ pasavanti, te c’imaṃ saddhammaṃ antaradhāpentti.

(7) S. (III), 125) Ye te bhikkhave bhikkhū navā acirapabbajitā adhunāgatā imaṃ dhammavinayaṃ, te vo bhikkhave bhikkhū catunnaṃ satipaṭṭhānānaṃ bhāvanāya samādapetabbā nivesetabbā patiṭṭhāpetabbā. Katamesaṃ catunnaṃ? ‘Etha tumhe āvuso kāye kāyānupassino viharatha ātāpino sampajānā ekodibhūtā vippasannacittā samāhitā ekaggacittā kāyassa yathābhūtaṃ ñāṇāya, vedanāsu vedanānupassino …vedanānaṃ yathābhūtaṃ ñāṇāya… dhammesu dhammānupassino … dhammānaṃ yathābhūtaṃ ñāṇāya’ti.

(8) SC. (III), 234) Ekodibhūtāti khaṇikasamādhinā ekaggabhūtā. Samāhitā ekaggacittāti upacārappanāvasena sammā ṭhapitacittā ca ekaggacittā ca. Imasmiṃ sutte navakabhikkhūhi c’eva khīṇāsavehi ca bhāvitasatipaṭṭhānā pubbabhāgā, sattahi sekhehi bhāvitā missakā.
----------
Người dịch ghi chú:

A. = Aguttara Nikāya

S. = Saṃyutta Nikāya

SC. = chú giải Saṃyutta Nikāya
---------

SÁT NA ĐỊNH

Bác Bỏ Phần Đáp Trả Phản Bác I-II

Tác Giả: Sayādaw U Ñāṇuttara Agga Mahā Paṇḍita (Miến Điện)


Căn c vào Sāla Sutta, Ambapāli Vagga, Satipaṭṭhāna Saṃyutta và Chú giải, Ven. Kheminda không còn cách nào khác hơn là chấp nhận rằng sát na định, cận hành định và an chỉ định, tất cả ba loại định, có thể được tu tập trong quá trình quán sát tứ niệm xứ. Tuy nhiên, Ven.Kheminda là người rất thông thạo trong việc chuyển sát na định từ nơi này đến nơi khác, theo cách riêng của vị ấy có thể muốn lẫn lộn sát na định được giải thích trong Chú giải này với định có phần thể nhập (nibbedhabhāgiya samādhi) và trong một m hỗn loạn, gán cho nó gần với đạo.

Xét vì Kinh này cũng đề cập đến các tỳ kheo mới thọ giới bắt đầu quán sát Tứ niệm xứ với ý định thấy các pháp như thực, Ven. Kheminda nên hiểu rằng vị ấy không thể chuyển, như vị ấy muốn, sát na định từ nơi đúng đắn của Tâm thanh tịnh. Rằng nó không thể chuyển theo cách tức thì được làm rõ bởi Phụ chú giải dành cho Kinh này, mà giải thích thêm như vầy:

“Chuyên tâm” có nghĩa là định chuẩn bị tạo ra thiền (jhāna) cận hành. “Định tĩnh” có nghĩa là định cận hành. ‘Nhất tâm’ có nghĩa là an chỉ định được khéo tu tập và thuần thục. (9)

Sát na định tạo ra cận hành định được đề cập trong Phụ chú giải này có thể được tu tập bằng cách quán sát bất cứ hai mươi mốt phần nào của kinh Niệm xứ (Satipaṭṭhāna Sutta). An chỉ định có thể được tu tập duy nhất bằng cách quán sát hơi thở và bất tịnh. Bởi vì Chú giải kinh Niệm xứ xác định một cách cụ thể như vầy “Chỉ hai phần là đề mục thiền tạo ra an chỉ định (appanā kammaṭṭhānānivà những phần còn lại là những đề mục thiền tạo ra cận hành định (upacāra kammaṭṭhānāni)”. (10)

Tôi nhận thấy rằng Ven. Kheminda chấp nhận quan điểm được diễn tả trong Visuddhimagga rằng các triền cái có thể được từ bỏ bởi cận hành định. Do đó, Ven. Kheminda không thể phủ nhận rằng các triền cái có thể được từ bỏ bằng cách quán sát bất cứ hai mươi mốt phần nào của kinh Niệm xứ (Satipaṭṭhāna Sutta), bởi vì bất cứ phần nào trong đó có thể tu tập cận hành định. Với sự từ bỏ các triền cái Tâm thanh tịnh được chứng đạt. Tâm thanh tịnh chắc chắn sẽ dẫn đến năm thanh tịnh thuộc về tuệ, tức là Kiến thanh tịnh, v.v… Nếu thế, có bất cứ cần thiết nào để tu tập thiền (jhāna) nhằm loại bỏ các triền cái trước khi người ta bắt đầu quán sát t niệm xứ không?
Đặc biệt là tôi xin chỉ ra rằng năm triền cái vẫn có mặt trong hành giả cho đến khi vị ấy bắt đầu thực hành quán sát t niệm xứ nhờ vậy mà chúng được vẹt tan và rằng sự thực này được chứng minh rõ ràng nhất bởi những đoạn văn sau đây trong phần khái luận và Năm Triền cái của Kinh Niệm xứ (Satipaṭṭhāna Sutta) và Chú giải.

“Ở đây một tỳ kheo sống thực hành quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác và chuyên niệm,

Sau khi loại trừ tham và ưu đối với đến thế giới … quán thọ … quán tâm … quán các pháp ….” (The Heart of Buddhist Meditation, Ñāṇaponika Thera, page 117).(11)
“Ở đây, này chư tỳ kheo, khi dục tham có mặt trong vị ấy, vị tỳ kheo biết ‘có dục tham trong tôi’. hoặc khi dục tham vắng mặt, vị ấy biết, ‘không có dục tham trong tôi’. Vị ấy biết làm thế nào dục tham chưa phát sinh đã phát sanh ; vị ấy biết làm thế nào dục tham đã phát sinh được buông bỏ; và vị ấy biết làm thế nào dục tham được buông bỏ không phát sinh trong tương lai … sân .. hôn thụy … trạo hối … nghi …”. (ibid, page 123) (12)
Chú giải khái luận về Satipaṭṭhāna Sutta giải thích “Tham nghĩa là dục tham, ưu nghĩa là sân. Vì dục tham và sân là những triền cái chính nên sự từ bỏ các triền cái được phát biểu bằng sự chế ngự tham và ưu.” (13)

Chú giải thêm “Quả của quán sát được phát biểu bằng sự chế ngự tham và ưu”. (14)
Giá như Ven. Kheminda có thể nắm hoàn toàn văn tự và tinh thần của những đoạn văn được chọn lọc từ Tương ưng Niệm xứ (Satipaṭṭhāna Saṃyutta), Chú giải và Phụ Chú giải và cũng từ kinh Đại niệm xứ (Mahā-Satipaṭṭhāna Sutta) và Chú giải thì lẽ ra vị ấy có thể hiểu rằng mặc dù thiền chỉ (samatha) không được tu tập, nhưng các triền cái có thể được từ bỏ bằng cách quán sát tứ Niệm xứ và đạo quả trí (magga-phalañāṇa) có thể được chứng đạt.

Nếu vị ấy hiểu như thế, vị ấy phải hối tiếc rằng bi vì vị ấy không thể nắm đầy đủ các kinh văn Pāḷi liên quan, các Chú giải và các Phụ chú giải, vị ấy đã nói một cách lờ mờ rằng các triền cái có thể được từ bỏ duy nhất bằng cách của thiền. Trong bất cứ trường hợp nào, quan điểm của vị ấy, mà không phù hợp với các kinh văn Pāḷi liên quan, các Chú giải và các Phụ chú giải, phải được xem xét lại, dùng lại những từ ngữ riêng của vị ấy là “không ở trong lĩnh vực hiện thực nhưng trong giả tưởng”.
Ven. Kheminda trích dẫn một vài kinh để chứng minh rằng các triền cái có thể được từ bỏ duy nhất bằng cách của thiền (jhāna). Thực ra, chúng không liên quan với vấn đề đang thảo luận.

Một số kinh vị ấy trích dẫn chỉ đề cập đến người có cỗ xe chỉ (Samathayānika) và những bài khác thậm chí không nói về trình tự tiến triển trong quán sát. Tôi sẽ giải thích thêm.

Về những bài giảng của Đức Phật giải thích sự thực hành dẫn đến Niết bàn, Thanh tịnh đạo (Visuddhimagga) phát biểu như sau:

Trong một số trường hợp (loại đầu tiên) đạo thanh tịnh này được dạy bởi chỉ riêng quán, như có câu nói:

“Các pháp hữu vi đều là vô thường,

Khi vị ấy thấy như vậy với trí tuệ,

Và từ bỏ những gì là khổ,

Đó là con đường thanh tịnh” (Dh. 277).
và trong một số trường hợp (loại thứ hai) bởi thiền (jhāna) và tuệ như có câu nói:

Người có thiền và tuệ đến gần Niết bàn.
(Dh. 372) Bhikkhu Ñāṇaṃoli: The Path of Purification, (page 2 & 3), (15)

Trong bản dịch trên, “chỉ riêng quán” có nghĩa là “Vipassanā mattava-sen'eva”. Ở đây cần nêu ra rằng từ eva nhấn mạnh sự loại trừ thiền chỉ (samatha) bởi vì samatha là nhóm đối nghịch trong cặp: chỉ quán (samatha vipassanā). Nó không có nghĩa loại trừ giới mà không phải là nhóm đối nghịch của quán (vipassanā).
Lại nữa, bởi vì từ matta chuyển nghĩa riêng biệt, nó cũng nhấn mạnh sự loại trừ cận hành và an chỉ định, mà là riêng biệt. Nó không loại trừ định đơn giản, vì không có quán nào phát sinh mà không có sát na định. (16)

Các bài giảng như Kiṃsukopama Sutta, Hiri-ottapa Sutta and Uttiya Sutta thuộc về loại thứ hai. Do đó, tôi nói rằng chúng đều không liên quan với chủ đề đang thảo luận, vấn đề người có cỗ xe quán (vipassanāyānika) và sát na định (khaṇika-samādhi) . Có vẻ như Ven. Kheminda không hiểu thấu các kinh nói về thuần quán, như Māluṅkyaputta và Bāhiya (Dāruciriya) Sutta mà thuộc về loại thứ nhất. Cứ cho là vị ấy đã hiểu thấu chúng đi.

Vị ấy dường như không nắm trọn vẹn tầm quan trọng của chúng. Tôi muốn thúc giục vị ấy tìm ra các bài giảng nhiều hơn của loại này và nghiên cứu chúng.

Để cho thấy rằng các triền cái chỉ có thể được từ bỏ bằng cách thiền (jhāna) và quán (vipassanā) chỉ được tu tập sau khi chứng đạt thiền, Ven. Kheminda đề cập đến một câu trong Kiṃsukopama Sutta “Sīghaṃ dūtayuga’nti kho, bhikkhu, samathavipassanānetaṃ adhivacanaṃ”. Nhưng tôi đã vạch ra rằng kinh này thuộc về loại thứ hai và do đó, không liên quan với vấn đề đang bàn.

Ven. Kheminda trích dẫn Mahāsaccaka Sutta. Nếu, như vị ấy nghĩ, kinh này ngụ ý cho thấy trình tự tiến triển trong quán sát, điều đó tương đương với câu nói rằng sau khi tu tập thiền (jhāna), ắt hẳn người ta cũng đã tu tập những thắng trí về việc nhớ các đời sống quá khứ và thiên nhãn trước khi người ta có thể bắt đầu thiền quán (vipassanā).

Thực ra, người ta thừa hiểu rằng những thắng trí (abhiññā) không hề cần thiết cho thiền quán. Ven. Kheminda lẽ ra nên biết rằng trình tự tiến triển được diễn tả trong kinh này không có nghĩa là dành cho mỗi hành giả. Trong kinh này Đức Phật đang nói cho Saccaka biết trình tự thực chứng chân lý tiến triển dần lên và người ta không nên hiểu đó là trình tự tiến triển dành cho tất cả loại hành giả. Thực là điều rất đáng tiếc rằng Ven. Kheminda không phân tích tổng thể kinh đó nhưng thay vì thế lại chọn ra một đoạn mà thích hợp với vị ấy và phạm phải ở đấy một lỗi như thế.

Lại nữa, đề cập đến anupubbasikkhā, anupubbakiriyāanupubbapaṭipadā của Pahārāda Sutta, Ven. Kheminda chỉ ra rằng “nhờ học tập dần dần, làm phận sự dần dần và thực hành dần dần, sự thể nhập thực sự của trí xảy ra, không phải tức thì”. Trình tự tiến triển, như vị ấy chỉ ra là đúng, nhưng định (samādhi) được đề cập ở đây bao trùm không những cận hành định (upacāra samādhi) và an chỉ định (appanā samādhi ) mà còn sát na định (khaṇika samādhi) được chứng tỏ bởi sự hiện hữu của các A la hán cỗ xe thuần quán (suddha-vipassanāyānika) và các A la hán quán khô (sukkha-vipassaka).

Thực ra, trong Pahārāda Sutta Đức Phật đưa ra sự so sánh Giáo Pháp của Phật (Sāsanā) với đại dương; trong kinh đó không ngụ ý nêu ra sự nhấn mạnh vào trình tự tiến triển của giới (Sīla), định (Samādhi) và tuệ Paññā). Như Ven. Kheminda chủ trương, nếu ý kinh cho thấy một trình tự tiến triển như thế, nó sẽ đưa đến câu nói rằng trước khi tu tập định và tuệ, các hạnh đầu đà (dhutaṅga) phải được thực hành theo Chú giải mà có lời giải thích như vầy: “anupubbakiriyā (làm phận sự dần dần) có nghĩa là 13 đầu đà”.

Ven. Kheminda trích dẫn một đoạn từ chú giải Cūḷahatthipadopama Sutta, một đoạn mà phù hợp, như vị ấy tin như vậy, khi cảm thấy kinh này ngụ ý cho thấy trình tự tiến triển trong quán sát. Lẽ ra vị ấy nên biết rằng kinh này đề cập đến hạnh xuất gia, sự thọ trì giới bổn Pātimokkha, thu thúc các căn, niệm với tỉnh giác, sự tu tập thiền (jhāna) để từ bỏ các triền cái, thắng trí về việc nhớ các sống quá khứ và thiên nhãn, cuối cùng là với lậu tận trí, so sánh A la hán với dấu chân của một con voi. Nếu trình tự tiến triển này phải được theo bởi tất cả không trừ một ai, thì thực rõ ràng rằng người ta phải từ bỏ thế tục trước khi người ta bắt đầu quán sát và cũng không bao giờ có người cư sĩ nào có thể hy vọng bước trên thánh đạo.

Người ta có thể nhận xét rằng các đệ tử cư sĩ của Ven. Kheminda không thể chấp nhận giải thích không chính xác này về bài kinh bởi vì vị ấy hầu như đã đóng con đường đến đạo quả trí (maggaphalañāṇa) theo như họ cảm thấy. Người ta phải vạch ra rằng trong trình tự tiến triển này asammoha sampajañña vipassanā (niệm với quán tỉnh giác) đi trước thiền chỉ (samatha), và vì thế khẳng định của Ven. Kheminda rằng samatha phải đi trước vipassanā là không có căn cứ (Ven. Kheminda hiểu kinh này theo nghĩa đen, không thể nào phủ nhận điểm này).

Lại  nữa, để cho thấy rằng tứ niệm xứ nên được tu tập sau khi từ bỏ các triền cái, Ven. Kheminda trích dẫn một đoạn kinh từ Nālanda Sutta. Nhưng những lời dạy trong kinh này đề cập đến trình tự tiến triển được theo bởi những ai phải bao phủ toàn thể phạm vi tu tập nhằm đạt đến giai đoạn cao nhất của Phật quả.

Đó là lý do tại sao kinh chứa đựng sự thực hành đặc biệt “sau khi từ bỏ các triền cái”, theo đúng sự thực hành của người có cỗ xe chỉ (Samathayānika). Các độc giả ắt đã hiểu rằng mỗi vị Phật (Buddha) là Tevijja samathayānika (cỗ xe chỉ Tam minh) và rằng không có suddhavipassanāyānika Buddhas (chư Phật cỗ xe thuần quán), không có sukkhavipassaka Buddhas (chư Phật quán khô) và không có chư Phật mất đi các thắng trí (abhiññā). (17)

Hành giả có cỗ xe thuần quán (suddhavipassanāyānika), đề tài đang thảo luận, là thấp nhất trong một vài loại hành giả và vị ấy không cần tu tập thiền (jhāna) một cách riêng biệt để vẹt tan các triền cái trước khi quán sát Tứ niệm xứ. Vị ấy vẹt tan chúng trong khi quán sát Tứ niệm xứ. Vị ấy phải làm thế bởi vì vị ấy không có những năng lực đặc biệt. Vị ấy giống như một người, mà không có thuyền để vượt qua, phải bơi qua sông. (18)

Thực vậy, kinh này cho thấy cách thức trong đó Venerable Sāriputta biết được làm thế nào chư Phật chứng toàn giác và cũng trình với Đức Phật rằng vị ấy chỉ có thể do suy luận mà biết sự đồng đẳng của chư Phật trong tất cà khía cạnh.

Ở phần kết luận của bài giảng cho Ven. Sāriputta, Đức Phật đã thuyết với chủ ý rằng khi các phàm phu (puthujana) nghe được Nālanda Sutta này, họ sẽ có thể khắc phục những hoài nghi của họ về chư Phật bằng sự suy nghĩ theo cách này:
“Ngay cả Sāriputta có trí nhạy bén, được chính Đức Phật công nhận là tối thắng về trí tuệ trong số các đệ tử, cũng không thể dò tìm tâm Đức Phật và vì thế Đức Phật là không thể so sánh được”. (19)

Tôi không biết Ven. Kheminda hiểu kinh này như thế nào, bởi vì các bài báo trong World Buddhism vào tháng Ba và tháng Bảy, vị ấy đã thực liều lĩnh dịch sai từ Như Lai (tathāgata) trong cụm từ “tathāgate kaṅkha vā vimati vā” dịch là “phương pháp giảng dạy”. Trong khi tôi không có ý định cáo buộc rằng Ven. Kheminda thậm chí không biết ý nghĩa của từ tathāgata (Như Lai), tôi buộc phải đưa ra cho độc giả thấy rõ cách dịch của vị ấy về từ “tathāgata” này và cách dịch của Pāḷi Text Society.
Ven. Kheminda dịch như vầy “Tuyệt thay, tuyệt thay!này Sāriputta... nếu có trong số họ bất cứ kẻ ngu nào mà có hoài nghi và hoang mang về phương pháp giảng dạy của ta, sau khi nghe lời giải bày này, họ có thể từ bỏ những hoài nghi và hoang mang của họ”. (bài báo tháng Ba, World Buddhism, trang 225, cột giữa và bài báo tháng Bảy, World Buddhism, trang339, cột giữa).

P. T. S dịch như vầy: “Khéo nói thay, này Sariputta! bất cứ kẻ ngu nào có bất cứ hoài nghi hoặc hoang mang về Như Lai, khi họ nghe pháp môn của ta, tất cả nghi ngờ và hoang mang như thế sẽ được từ bỏ”. ((The Book of Kindred Sayings, V, page 140, XLVIII, III, ii, Nālanda).

“Do vậy, này Sāriputta … bất cứ kẻ ngu nào là những kẻ cảm thấy hoài nghi và do dự về Như lai, khi họ đã nghe lời giảng thuyết như thế, ngay cả họ cũng sẽ loại bỏ do dự và hoài nghi của họ”. ( Dialogues of the Buddha, Part III, The Faith That Satisfied, page 109)

Chư độc giả giờ đây sẽ thấy cách dịch sai lầm về từ Như Lai (tathāgata) là "phương pháp giảng dạy".

---------

CHÚ THÍCH

9) SSC (II, 496)Ekodibhūtāti tetena upacārajjhānāvaho pubbabhāgiko samādhi vutto. Samāhitāti etena upacārasamādhi. Ekaggacittāti etena subhāvito vasippatto appanāsamādhi vuttoti veditabbo.

(10) D. C. (II, 394) dve’yeva appanākammaṭṭhānāni, sesāni upacārakammaṭṭhānāni

(11) D. (II, 231) Idha bhikkhave bhikkhu kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ. Vedanāsu vedanānupassī……Citte cittānupassī…Dhammesu dhammānupassī…

(12) D. (II, 238) Idha bhikkhave bhikkhu santaṃ vā ajjhattaṃ kāmacchandaṃ ‘atthi me ajjhattaṃ kāmacchando’ti pajānāti, asantaṃ vā ajjhattaṃ kāmacchandaṃ ‘natthi me ajjhattaṃ kāmacchando’ti pajānāti, yathā ca anuppannassa kāmacchandassa uppādo hoti tañca pajānāti, yathā ca uppannassa kāmacchandassa pahānaṃ hoti tañca pajānāti, yathā ca pahīnassa kāmacchandassa āyatiṃ anuppādo hoti tañca pajānāti. Santaṃ vā ajjhattaṃ byāpādaṃ… thinamiddhaṃ… uddhaccakukkuccaṃ… vicikicchaṃ…

(13) DC. (II, 349) Yasmā pan’ettha abhijjhāggahaṇena kāmacchando, domanassaggahaṇena byāpādo saṅgahaṃ gacchati, tasmā nīvaraṇapariyāpannabalavadhammadvayadassanena nīvaraṇappahānaṃ vuttaṃ hotīti veditabbaṃ.

(14) DC (II, 350) Abhijjhādomanassavinayena bhāvanāphalaṃ vuttanti veditabbaṃ

(15) Vism (I, 2). So panāyaṃ visuddhimaggo katthaci vipassanāmattavaseneva desito. Yathāha: Sabbe saṅkhārā aniccāti, yadā paññāya passati, atha nibbindati dukkhe, esa maggo visuddhiyā’ti.

Katthaci jhānapaññāvasena. Yathāha: Yamhi jhānañca paññā ca, sa ve nibbānasantike’ti.

(16) Vism C (I, 11) Vipassanāmattavasenevāti avadhāraṇena samathaṃ nivatteti. So hi tassā paṭiyogī, na sīlādi. Matta-saddena ca visesanivattiatthena savisesaṃ samādhiṃ nivatteti. So upacārappanābhedo vipassanāyānikassa desanāti katvā na samādhimattaṃ, na hi khaṇikasamādhiṃ vinā vipassanā sambhavati.

(17) M. (II, 149) ‘Tevijjo samaṇo gotamo’ti kho vaccha byākaramāno vuttavādī c’eva me assa, na ca maṃ abhūtena abbhācikkheyya.

(18) MC. (IV, 44-45) Samāpattiṃ tāva padaṭṭhānaṃ katvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ gaṇhanto bhikkhu nāvaṃ vā uḷumpādīni vā nissāya mahoghaṃ taritvā pāraṃ gacchanto viya na kilamati. Sukkhavipassako pana pakiṇṇakasaṅkhāre, sammasitvā arahattaṃ gaṇhanto bāhubalena sotaṃ chinditvā pāraṃ gacchanto viya kilamati.

(19) S. (III, 139) Tasmāt’iha tvaṃ sāriputta imaṃ dhammapariyāyaṃ abhikkhaṇaṃ bhāseyyāsi bhikkhūnaṃ bhikkhunīnaṃ upāsakānaṃ upāsikānaṃ. Yesampi hi sāriputta moghapurisānaṃ bhavissati tathāgate kaṅkhā vā vimati vā, tesamp’imaṃ dhammapariyāyaṃ sutvā yā tathāgate kaṅkhā vā vimati vā, sā pahīyissati.

SC. (III, 245) Sā pahīyissatīti ‘sāriputtasadisopi nāma ñāṇajavanasampanno sāvako buddhānaṃ cittācāraṃ jānituṃ na sakkoti, evaṃ appameyyā tathāgatā’ti cintentānaṃ yā tathāgate kaṅkhā vā vimati vā, sā pahīyissati.

---------
Người dịch ghi chú:

SSC = phụ chú giải Saṃyutta Nikāya

D. C = chú giải Dīgha Nikāya

D = Dīgha Nikāya

Vism = Visuddhimagga

Vism C = chú giải Visuddhimagga

M = Majjhima Nikāya

MC = chú giải Majjhima Nikāya

S = Saṃyutta Nikāya

SC= chú giải Saṃyutta Nikāya

Chú Thích 9 ở trên, Phụ chú giải ấn bản Miến kết tập kỳ 6 ghi:

Samāhitāti etena upacārappanāsamādhi

Chú Thích 14 ở trên, Chú giải Dīgha Nikāya ấn bản Miến kết tập kỳ 6 ghi:

abhijjhādomanassavinayena bhāvanābalaṃ vuttanti veditabbaṃ.

Chú giải MajjhimaNikāya ấn bản Miến kết tập kỳ 6 ghi:

abhijjhādomanassavinayena bhāvanāphalaṃ vuttanti veditabbaṃ.
------
Asammoha sampajañña vipassanā: Asammoha sampajañña thường gọi là tỉnh giác vô si.
-------

SÁT NA ĐỊNH

Bác Bỏ Phần Đáp Trả Phản Bác I-III

Tác Giả: Sayādaw U Ñāṇuttara Agga Mahā Paṇḍita (Miến Điện)


Ven. Kheminda khẳng định trong phần Đáp Trả vị ấy dành cho phần Phản Bác I-III rằng bất cứ hành giả nào, là người có cỗ xe chỉ (samathayānika) hoặc người có cỗ xe quán (vipassanāyānika), tu tập thiền chỉ (samatha) ở giai đoạn Tâm thanh tịnh và quán (vipassanā) bắt đầu với Kiến thanh tịnh. Sự khẳng định vị ấy là đúng về phần người có cỗ xe chỉ (samathayānika), trong khi đó nó là không xác thực trong trường hợp người có cỗ xe quán (vipassanāyānika).

Nếu một hành giả tu tập thiền chỉ (samatha) ở giai đoạn Tâm thanh tịnh, vị ấy được gọi là người có cỗ xe chỉ (samathayānika) dù vị ấy có cơ s trong thiền chỉ (samatha) hay không ở giai đoạn Kiến thanh tịnh. Ở đây người ta có thể được nhắc nh rằng mặc dù, từ ngữ người có cỗ xe quán (vipassanāyānika) được dùng nhưng vì ngắn gọn đôi khi so với từ ngữ người có cỗ xe chỉ (samathayānika), nó được biết đầy đủ là người có cỗ xe thuần quán (suddhavipassanāyānika). Tiếp đầu ngữ thuần (suddha) trong từ này chuyển nghĩa rằng nó hoàn toàn tách riêng thiền chỉ (samatha) ra.

Vì thế một hành giả tu tập thiền chỉ (samatha) ở giai đoạn Tâm thanh tịnh không đời nào có thể được gọi là người có cỗ xe thuần quán (suddhavipassanāyānika). Nơi đây, các hành giả cỗ xe thuần quán, thực ra, là loại hành giả tu tập quán sát được đề cập trong phần bàn về tác ý Tứ đại, kinh Đại niệm xứ (Mahā Satipaṭṭhāna Sutta). Tại sao? Bởi vì trong phần bàn về niệm thân, Visuddhimagga phát biểu “Nơi đây ba, tức là, những phần về oai nghi, về bốn loại tỉnh giác (See MA, i, 253 f.) và về tác ý hướng đến t đại, như chúng được phát biểu (trong kinh đó) đề cập đến quán …

Vì thế chỉ có hai, đó là, những phần về hơi thở và về việc hướng tác ý đến bất tịnh, mà, như được phát biểu ở đấy, đề cập đến định … The P. of P., B. Ñāṇamoli, Chap VIII. Para 43) (20)
“Trong Mahā Hatthipadopama Sutta, Mahā Rāhulovāda Sutta, và Dhātu-vibhaṅga, bất tịnh được giải thích là các đại …

Nơi đây, nó là một đề mục thiền quán được giải thích là các đại’ (The P. of P., B. Ñāṇamoli, Chap VIII, Page 263, Para 60) (21) Nếu thế, tại sao tác ý hướng đến các đại, khi được giải thích là các đại, không thể là đề mục thiền quán?

Do đó, hành giả thực hành thiền đặc biệt này rõ ràng là người có cỗ xe quán (vipassanāyānika).

Tôi đã vạch ra rằng hành giả cỗ xe thuần quán (suddhavipassanāyānika) không tu tập thiền chỉ (samatha) với ý định chứng Tâm thanh tịnh trước khi vị ấy bắt đầu thiền quán. Về vấn đề này Ven. Kheminda có thể hỏi một hành giả cỗ xe thuần quán (suddhavipassanāyānika) chứng đạt Kiến thanh tịnh, có bỏ qua Tâm thanh tịnh hay không, bởi vì vị ấy bám vào quan điểm một chiều rằng Tâm thanh tịnh duy nhất có thể chứng đạt bằng cách thiền (jhāna).

Với một câu hỏi như thế, tôi xin sẵn sàng trả lời như vầy “Không, một hành giả cỗ xe thuần quán không bỏ qua Tâm thanh tịnh. Trước hết, vị ấy chứng Tâm thanh tịnh trong khi tu tập quán (vipassanā) và sau đó, trong khi làm thế, chứng năm thanh tịnh thuộc về tuệ như Kiến thanh tịnh, cái này tiếp theo cái kia”.

Tôi sẽ giải thích làm thế nào Tâm thanh tịnh được chứng đạt trong quá trình thiền quán (Ven. Mahāsī  đã giải thích điểm đặc biệt này trong The Progress of Insight theo một cách thích hợp để hiểu biết rõ ràng về con người nói chung, nhưng Ven. Kheminda không thấy Tâm thanh tịnh trong nơi đúng đắn của nó và tệ hại hơn nữa, chuyển nó đến nơi sai lạc).

Khi một hành giả quán sát bằng cách tác ý đến Tứ  đại, như được đề cập trong kinh Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna Sutta), có phải vị ấy không nên bắt đầu ngay lập tức với việc quán sát Tứ  đại như đề mục thiền quán? Trong khi làm thế, có phải vị ấy sẽ có thể chứng cận hành định duy nhất khi nào vị ấy quán sát với ý định chứng đạt định (samādhi)? Có phải vị ấy sẽ không thể chứng đạt cận hành định nếu vị ấy quán sát với ý định chứng đạt quán (vipassanā)?

Có bất cứ khác biệt nào trong vấn đề quán sát đối với quán (vipassanā) và đối với định (samādhi)? Không, không có khác biệt khi nói về việc chứng cận hành định. Đó là lý do tại sao trong chương nói về sự diễn tả Kiến thanh tịnh, Visuddhimagga phát biểu như vầy:

“Nhưng người có cỗ xe là thuần quán, hoặc như người đã nói trên có cỗ xe là thiền chỉ, phân biệt Tứ  đại tóm tắt hoặc chi tiết ở một trong nhiều cách khác nhau được nêu ra trong chương nói về xác dinh Tứ đại (The P. of P, B. Ñāṇamoli, Chap. XVIII, Page 680, Para 5) (22)

Paramatthamañjūsā phát biểu: “Do có nhiều cách khác nhau phân biệt các đại là có ý nói ‘trong mười ba cách phân biệt các đại, được phát biểu là tác ý tóm tắt, v.v… theo cách thức bắt đầu với những gì có những tướng cứng là nguyên tố đất (địa đại)”. (23)

Ở đây, mặc dù liên quan đến xác định Tứ  đại nhưng con số mười ba cách được cho thấy là mười chín, sáu cách còn lại phải được coi là đã được bao gồm trong mười ba. Việc một người mới bắt đầu thiền nên khởi đầu quán sát tóm tắt như vậy được cho thấy trong đoạn Phụ chú giải kinh Uparipaṇṇāsa, Majjhima Nikāya.

“Khi Đức Phật giảng về thiền, Phật cho thấy cái cách trong đó thiền nên được bắt đầu tới mức độ nó thích hợp với các điều kiện và khả năng của vị tỳ kheo đó. Khi đúng thời quán trí của vị tỳ kheo trở nên được tu tập nhiều hơn, thì vị ấy phân biệt pháp đó hoàn toàn”. (24)

Làm thế nào một hành giả quán sát Tứ  đại phù hợp với cách được nêu ra trong chương nói về xác định Tứ  đại, chứng đạt cận hành định được cho thấy trong Visuddhimagga như sau:

“Khi vị ấy nỗ lực theo cách này chẳng bao lâu định phát sinh nơi vị ấy mà được củng cố bởi trí tuệ chiếu sáng sự phân tích các đại. Định này chỉ là cận hành và không đạt đến an chỉ bởi vì nó có các pháp thực tính làm đối tượng của nó”. (The P. of P., B. Ñāṇamoli, Chap. XI, Page 385, para 44) (25)
“Nơi đây, người ta phải chú ý rằng: ‘Sự tác ý đến các đại’, ‘Đề mục thiền gồm có các đại’ và ‘Sự xác định về Tứ đại’ tất cả đều muốn nói cùng sự việc”. (The P. of P., Ñāṇamoli, Chap. XI, page 380, para 27) (26)

Về cận hành định được đề cập trong đoạn trên của Thanh tịnh đạo, Paramatthamañjūsā (chú giải Thanh tịnh đạo) giải thích như vầy “Mặc dù cận hành định phát sinh theo cách tác ý đến các đại, về vấn đề tác ý đến các đại chính là sự quán sát mà cực kỳ sâu sắc. Do đó, Ven. Buddhaghosa Mahāthera viết rằng s tác ý đến các đại được Đức Phật giải thích là đề mục thiền quán”. (27)

Đức
Phật giải thích "Tác ý đến các đại" là đề mục thiền quán. Do đó, với một hành giả, mà quán sát các đại để có được quán, tất nhiên phát sinh cận hành định. Với cận hành định này được thấy rõ, Visuddhimagga đưa “Sự tác ý đến các đại” vào bốn mươi đề mục thiền chỉ. Không phải nó được bao gồm trong đó bởi vì nó là một đề mục thiền chỉ (samatha) riêng biệt.

Tại sao? Bởi vì Đức Phật không giải thích ‘Sự tác ý đến các đại; chỉ là dành cho thiền chỉ, và cũng bởi vì Visuddhimagga khi đề cập đến việc trú niệm trên thân, như được nêu ra ở trên, phát biểu rằng ngay cả bất tịnh, nếu được giải thích như là các đại, là một đề mục thiền quán.

Xét theo những đoạn văn đã nói trước từ Visuddhimagga và Chú giải của bộ luận này là Paramatthamañjūsā, Ven. Kheminda lẽ ra có thể hiểu rằng làm thế nào cận hành định phát sinh với một hành giả có cỗ xe quán (vipassanāyānika) trước khi có Kiến thanh tịnh. Khi cận hành định phát sinh, thì Tâm thanh tịnh được chứng đạt, và cũng có trí phân tích về danh sắc và các Thanh tịnh thuộc về tuệ như Kiến thanh tịnh. Do đó, Ven. Kheminda nên nhớ, một lần cuối rằng Tâm thanh tịnh phát sinh trong cách thức này với một hành giả cỗ xe thuần quán (suddhavipassanāyānika) trước khi chứng đạt Kiến thanh tịnh trong quá trình thiền quán.

Ven. Mahāsī Sayādaw giải quyết điểm này trong The Progress of Insight. Ven. Kheminda còn có thể khăng khăng khi nói rằng trong The Progress of Insight Tâm thanh tịnh không được đề cập và Kiến thanh tịnh phát sinh, bỏ qua Tâm thanh tịnh chăng? Giờ đây việc tôi đã giải thích điểm này đầy đủ chi tiết, với sự ủng hộ của các kinh điển và các Chú giải có nguồn đáng tin cậy nhất, Ven. Kheminda lẽ ra có thể hiểu được những gì Ven. Mahāsī Sayādaw viết trong đó.

Định được đề cập ở trên gọi là cận hành định, nhưng thực ra, nó không phải là cận hành định đích thực, không phải gần với an chỉ thiền. Nó là cận hành định chỉ có trên danh nghĩa. Paramatthamañjūsā phát biểu “Cận hành định phải được hiểu như một từ ngữ thông dụng hoặc như là trên danh nghĩa mà thôi.

Định mà phát sinh gần với an chỉ là cận hành định thực và ở đây (đề mục thiền gồm có các đại) an chỉ vắng mặt. Tuy nhiên, vì tương tự về tướng với cận hành định nó được gọi bằng từ ngữ đó”. (28)
Như Paramatthamañjūsā phát biểu, nếu định này có thể được gọi là cận hành định theo danh nghĩa, làm thế nào nó sẽ được gọi theo nghĩa đúng? Có phải định này không có t
riêng? Không phải thế. Trong vấn đề của mỗi định chỉ (samatha) và định quán (vipassanā) có những từ riêng trong cách dùng chung. Cận hành định đã nói trước là “định dục giới (Kāmāvacara samādhi) khi đạt đến đỉnh cao nhất”. Định dục giới (kāmāvacara) này có hai loại - cận hành định và sát na định. Nếu định không thể có tên đúng là cận hành định, nó chỉ còn được gọi là sát na định. Giải thích này được xác nhận bởi Paramatthamañjūsā và Phụ chú giải Mūlapaṇṇāsa, cả hai phát biểu “Quán không thể xảy ra nếu không có sát na định”. (29)

Khi được chứng thực đầy đủ bởi các Phụ chú giải này, vô số sát na định phát sinh trong quá trình thiền quán. Trong tất cả sát na định này, Visuddhimagga (phần về xác định Tứ Đại) chỉ gọi sát na định đó, trong trường hợp đầu tiên, chế ngự các triền cái, bằng tên cận hành định nếu không thì gọi là cận hành định theo danh nghĩa.

Điểm này sẽ được làm rõ thêm theo những đoạn văn sau đây trong Paramatthamañjūsā: “Với  một hành giả có cỗ xe chỉ (samathayānika) không bao giờ có thể chứng siêu thế (lokuttarā) … nếu không có cận hành và an chỉ định” (30)
Nơi đây không có nghĩa rằng siêu thế được chứng bởi một hành giả có cỗ xe chỉ ngay khi cận hành hoặc an chỉ định phát sinh. Tuy nhiên, luận có ý nói rằng Tâm thanh tịnh vốn là nền tảng cho sự chứng siêu thế không thể xảy ra nếu không có cận hành hoặc an chỉ.
Lại nữa, Paramatthamañjūsā phát biểu “Với một hành giả có cỗ xe quán (vipassanāyānika) không bao giờ có thể chứng siêu thế… nếu không có sát na định”. (30)
Nơi đây, cũng không có nghĩa rằng siêu thế được chứng ngay khi sát na định phát sinh.
Tuy nhiên, luận có ý nói rằng Tâm thanh tịnh vốn là nền tảng cho sự chứng siêu thế không thể xảy ra nếu không có sát na định. Trong hai đoạn này, Ven. Kheminda đã chấp nhận ý nghĩa của đoạn trước. Nếu thế, vị ấy không có lựa chọn nào khác hơn là chấp nhận ý nghĩa của đoạn sau, mà tương tự trong cách diễn đạt với phần trước.
Những giải thích ở trên căn cứ vào sự xem xét không thiên kiến và nhiệt thành để cố tìm ra chân lý, sẽ được tìm thấy khi đã chứng minh đầy đủ rằng với một hành giả có cỗ xe quán (vipassanāyānika) Tâm thanh tịnh phát sinh bằng cách sát na định trong quá trình thiền quán; Tâm thanh tịnh được chứng đạt đến trước Kiến thanh tịnh; và không nhất thiết phải tu tập thiền chỉ (samatha) để được Tâm thanh tịnh trước khi thiền quán.
Để nói thêm theo cách khác, sát na định, ở gần đạo quả định (magga-phala samādhi), có thể chắc chắn được gọi là cận hành thực sự. Tôi sẽ giải thích. Về vấn đề tu tập thiền chỉ (samatha) có hai loại cận hành định: (1) cận hành có hướng tâm giống nhau (ekavajjana-upacāra), (2) cận hành có hướng tâm khác nhau (nānāvajjana-upacāra). “Cận hành định là sự nhất tâm đi trước an chỉ định”. (31) (The Path of Purification, Bhikkhu Ñāṇamoli, Chap. III, Page 84, 6-2)
“Cụm từ ‘sự nhất tâm đi trước‘ phát biểu sự bao hàm cận hành định có một hướng tâm khác nhau đưa đến an chỉ định, nhưng không phải cận hành định duy nhất có hướng tâm giống nhau”. (32)
“Nơi đây, sự nhất tâm trong trường hợp của mười đề mục thiền và trong tâm đi trước an chỉ (trong trường hợp các đề mục thiền còn lại) là cận hành định”. (33) (The P. of P, B., Bhikkhu Ñāṇamoli, Chap. XI, Page 406, 119)
Snhất tâm là nhất tâm trong lộ tâm (vīthi) có hướng tâm giống nhau cũng như trong lộ tâm có hướng tâm khác nhau”. (34)
Theo những đoạn văn trên của Visuddhimagga và chú giải của bộ luận này là Paramatthamañjūsā, sự nhất tâm mà kèm theo tên cận hành định trong lộ tâm thiền có hướng tâm giống nhau với an chỉ trong cùng lộ tâm và ở gần an chỉ được gọi là cận hành định có hướng tâm giống nhau.
Nếu sự nhất tâm có tên là cận hành định ở trong một lộ tâm khác nhau trước lộ tâm thiền, thì cận hành và an chỉ định rõ ràng không cùng lộ tâm và không có hướng tâm giống nhau.
Vì thế, trong trường hợp này, cận hành định có tên là cận hành định có một hướng tâm khác nhau.
Sự nhất tâm có tên là cận hành định có một hướng tâm khác nhau, mặc dù không ở gần trực tiếp an chỉ, nhưng được coi là gần an chỉ bởi vì nó đưa đến an chỉ. Do đó, Paramatthamañjūsā phát biểu như vầy: “Cận hành định có một hướng tâm khác nhau đưa đến an chỉ”. (35)
Đưa đến an chỉ’nghĩa là ‘chế ngự các triền cái.’ Khi các triền cái được chế ngự, hành giả đi đến gần an chỉ. Vì thế, sự nhất tâm có một hướng tâm khác nhau đưa đến an chỉ bằng cách chế ngự các triền cái, được gọi là cận hành định có một hướng tâm khác nhau từ sát na chế ngự các triền cái.
Đó là lý do tại sao Paramatthamañjūsā phát biểu “Các triền cái đối nghịch hoàn toàn với những chi thiền, phải được chế ngự, cùng với những bất thiện mà kết hợp với chúng, bằng cách đó, vị tỳ kheo hành giả này đã phải chứng thiền cận hành, có đối tượng là những tướng của các đại”. (36)
---------
CHÚ THÍCH

20. Vism. (I, 232) Tattha yasmā iriyāpathapabbaṃ catusampajaññapabbaṃ dhātumanasikārapabban’ti imāni tīṇi vipassanāvasena vuttāni … Ānāpānapabbaṃ pana paṭikkūlamanasikārapabbañca imān’ev’ettha dve samādhivasena vuttāni.
21. Vism. (I, 235) Mahāhatthipadopama mahārāhulovāda dhātuvibhaṅgesu dhātuvasena kathitaṃ…Tattha dhātuvasena kathitaṃ vipassanākammaṭṭhānaṃ hoti.
22. Vism. (II, 222) Suddhavipassanāyāniko pana ayam’eva vā samathayāniko catudhātuvavatthāne vuttānaṃ tesaṃ tesaṃ dhātupariggahamukhānaṃ aññataramukhavasena saṅkhepato vā vitthārato vā catasso dhātuyo pariggaṇhāti.
23. Vism C. (II, 353) Tesaṃ tesaṃ dhātupariggahamukhānan’ti ‘yaṃ thaddhalakkhaṇaṃ ayaṃ pathavīdhātū’tiādinā saṅkhepamanasikārādivasena vuttesu terasasu dhātupariggahamukhesu.
24. MSC. (III, 255) Bhagavā hi kammaṭṭhānaṃ kathento kammaṭṭhānikassa bhikkhuno kāraṇabalānurūpam’eva paṭhamaṃ bhāvanābhinivesaṃ dasseti. So pacchā ñāṇe vipulaṃ (vepullam?) gacchante anavasesato dhammaṃ pariggaṇhāti.
25. Vism, (I, 347) Tass’evaṃ vāyamamānassa naciren’eva dhātuppabhedāvabhāsanapaññāpariggahito sabhāvadhammārammaṇattā appanaṃ appatto upacāramatto samādhi uppajjati.
26. Vism. (I. 342) Dhātumanasikāro, dhātukammaṭṭhānaṃ, catudhātuvavatthānanti atthato ekaṃ.
27. Vism C. (I,298) Dhātumanasikārakammaṭṭhānena yadipi upacārasamādhi ijjhati, sammasanavāro pana tattha sātisayo’ti dhātumanasikārapabbampi ‘vipassanāvasena vuttan’ti vuttaṃ.
28. Vism C. (I, 436) Upacārasamādhīti ca ruḷhīvasena veditabbaṃ. Appanaṃ hi upecca cārī samādhi upacārasamādhi, appanā c’ettha natthi. Tādisassa pana samādhissa samānalakkhaṇatāya evaṃ vuttaṃ.
29. Vism C. (I, 11) MSC, (L, 204) Na hi khaṇikasamādhiṃ vinā vipassanā sambhavati
30. Vism C. (I, 15) Samathayānikassa hi upacārappanāppabhedaṃ samādhiṃ, itarassa khaṇikasamādhiṃ, ubhayesampi vimokkhamukhattayaṃ vinā na kadācipi lokuttarādhigamo sambhavati.
31. Vism. (I. 82) yā ca appanāsamādhīnaṃ pubbabhāge ekaggatā, ayaṃ upacārasamādhi.
32. Vism C. (I, 110) Pubbabhāge ekaggatā’ti iminā appanāya upakārakanānāvajjanupacārassapi saṅgaho daṭṭhabbo,
33. Vism, (I, 368) Dasasu kammaṭṭhānesu, appanāpubbabhāgacittesu ca ekaggatā upacārasamādhi
34. Vism C. (I, 459) Ekaggatāti ekāvajjanavīthiyaṃ, nānāvajjanavīthiyañca ekaggatā.
35. 
xem chú thích 32
36. Vism C. (I 435) Tesaṃ ujuvipaccanīkatāya nīvaraṇāni vikkhambhitāniyeva honti saddhiṃ tadekaṭṭhehi pāpadhammehi. Ettāvatā cānena upacārajjhānaṃ samadhigataṃ hoti dhātulakkhaṇārammaṇaṃ.
--------
Người dịch ghi chú:
Vism = Visuddhimagga (Thanh tịnh đạo)
Vism C = chú giải Visuddhimagga
MSC = phụ chú giải Majjhima Nikāya

----------------

SÁT NA ĐỊNH

Bác Bỏ Phần Đáp Trả Phản Bác I-IV

Tác Giả: Sayādaw U Ñāṇuttara Agga Mahā Paṇḍita (Miến Điện)

 

Như trong trường hợp của thiền chỉ (samatha), vì thế trong trường hợp của quán (vipassanā), sự nhất tâm gần với đạo quả (magga-phala) là cận hành định. Tuy nhiên, vì điểm nổi bậc của quán là quán trí, chỉ có quán trí đó được diễn tả trong các kinh điển Pāḷi và các Chú giải như là trí phân tích danh và sắc, trí phân biệt theo nhân duyên v.v.. Vì định không nổi bật trong quán, nó không được diễn tả. Nếu định được diễn tả, như trong trường hợp của thiền chỉ, nó đã phải được nêu ra rằng cận hành định phát sinh từ sát na chế ng các triền cái.

Cận hành định, khi ở trong cùng lộ tâm đạo với đạo quả (magga-phala), có tên là định có hướng tâm giống nhau. Sự nhất tâm có tên là cận hành định, khi ở trong một lộ tâm khác nhau trước lộ tâm đạo, có tên là cận hành định có một hướng tâm khác nhau.

Với (phần chuẩn bị ca) cận hành định này có một hướng tâm khác nhau có thể thấy được. Tôi đã nêu ra ở trên rằng cận hành định được giải thích trong Visuddhimagga, phần bàn đến xác định tứ đại, có thể chắc chắn có tên là cận hành định thực sự. Sau khi chứng đạt Tâm thanh tịnh do nhờ (phần chuẩn bị của) cận hành định có một hướng tâm khác nhau, năm thanh tịnh thuộc về tuệ lần lượt được chứng đạt.

Nếu đúng như thế, người ta có thể hỏi về việc tại sao cận hành định có một hướng tâm khác nhau, không gần với đạo quả (magga-phala), có thể có tên là cận hành định thực sự.

Trong trường hợp của thiền chỉ (samatha), cận hành định có một hướng tâm khác nhau, đưa đến an chỉ từ sát na chế ngự các triền cái (bất kể có khoảng thời gian của một số ngày giữa cận hành và an chỉ) được coi là gần với an chỉ. Cũng như thế, trong trường hợp của quán (vipassanā) cận hành định có một hướng tâm khác nhau, đưa đến đạo quả từ sát na Tâm thanh tịnh do nhờ chế ngự các triền cái (bất kể có bốn thanh tịnh giữa cận hành và đạo quả) được coi là gần với đạo quả.

Như trong trường hợp của chỉ (samatha), thiền (jhāna) đó cũng có thể được chứng đạt một số ngày sau khi chứng cận hành định, được cho thấy trong Thanh tịnh đạo, mà giải thích rằng tợ tướng được bảo vệ bằng cách bảy ngày, phát biểu như vầy “Nếu một tu viện có nhiều nơi trú vị ấy có thể th sống từng nơi, mỗi nơi trong ba ngày và lưu lại ở nơi nào mà tâm của vị ấy được định tĩnh”. (Visuddhimagga, Bhikkhu Ñāṇamoli, Chương IV, trang 113, 36) (37)
Không biết bất cứ gì về cận hành định có một hướng tâm khác nhau, Ven. Kheminda đã cáo buộc rằng “tác giả thừa nhận là sát na định gần với đạo”. Kế đó vị ấy nhận xét “Nhưng người ta không đi đến gần với đạo để chứng đạt Tâm thanh tịnh!”.

Giá mà Ven. Kheminda có thể nắm bắt được những gì tôi đã giải thích ở trên, lẽ ra vị ấy có thể hiểu rằng khi Ven. Mahāsī Sayādaw viết, trong The Progress of Insight “Vì cận hành định gần với an chỉ định thánh đạo”, tác giả đề cập đến (phần chuẩn bị của) cận hành định có một hướng tâm khác nhau và không phải cận hành định có hướng tâm giống nhau.
Nếu Ven. Kheminda hiểu như thế, vị ấy cũng nên hiểu rằng Tâm thanh tịnh được chứng đạt theo cách cận hành định đã nói có một hướng tâm khác nhau, có tên là cận hành định thực sự, phát sinh không phải gần trực tiếp với thánh đạo (ariya-magga) nhưng trước Kiến thanh tịnh.

Như được giải thích ở trên, giống như Tâm thanh tịnh được chứng đạt theo cách cận hành định có thể chế ngự các triền cái trong quá trình quán sát các đại phù hợp với sự tác ý đến các đại. Cũng vậy Tâm thanh tịnh được chứng đạt theo cách cận hành định trong quá trình thiền quán phù hợp với các Oai nghi của thân, Niệm với Tỉnh giác, Thọ, Tâm và các Pháp. Tại sao? Bởi vì trong Chú giải kinh Niệm xứ (Satipaṭṭhāna Sutta) những quán sát đề cập ở trên được diễn tả cùng với sự tác ý đến các đại là những đề mục cận hành định.
Trong trả lời của tôi dành cho số 2 (b), đoạn 9-14, tôi đã chỉ ra rằng sát na, cận hành và an chỉ định có thể được tu tập trong quá trình quán sát Tứ niệm xứ như được phát biểu trong Sutta, Ambapāli Vagga, Satipaṭṭhāna Saṃyuttaṃ, cũng như trong Chú giải và Phụ chú giải của kinh này. Cũng xét theo đó, thực là hoàn toàn rõ ràng rằng sát na định, cận hành định, cũng như Tâm thanh tịnh, được chứng đạt trong quá trình thiền quán.

Vì rằng tôi đã giải thích, trích dẫn những đoạn văn đáng tin cậy nhất từ các kinh điển Pāḷi, các Chú giải và các Phụ chú giải, Ven. Kheminda lẽ ra có thể hiểu rằng thiền chỉ (samatha) không được tu tập riêng biệt bởi một hành giả có cỗ xe quán (vipassanāyānika) để chứng đạt Tâm thanh tịnh và Tâm thanh tịnh được chứng theo cách sát na định chế ngự các triền cái (sát na định có tên là cận hành định trên ‘danh nghĩa’ theo Paramatthamañjūsā, và nó có tên là cận hành định ‘thực sự’ theo phương pháp cận hành định xác định có một hướng tâm khác nhau).

Tuy nhiên, tôi đề nghị trích dẫn nhiều đoạn văn hơn từ các kinh điển Pāḷi, các Chú giải và các Phụ chú giải, những điều mà Ven. Kheminda nên suy xét cẩn thận để mà vị ấy sẽ có thể hiểu sự thực về phát biểu đã nói trước, cũng như biết rằng sát na định cũng được gọi là định căn bản.

“Tuy nhiên, tỳ kheo đó có khả năng chứng đến bậc A la hán và vì thế Đức Thế Tôn khuyên vị ấy một lần nữa, khi nói rằng “Do đó, này tỳ kheo, ông nên học tập như vầy: “ Nội tâm của tôi sẽ vững chắc, hoàn toàn vững chắc và các ác bất thiện pháp đã phát sinh sẽ không ám ảnh tâm tôi và bám trụ. Ông nên học tập như vậy”. (A iv 299)

“Nhưng những gì được phát biểu trong lời khuyên đó chính là định căn bản chỉ là sự nhất tâm bên trong theo ý nghĩa ở bên trong chính mình”. (The  P. of P., B. Ñaṇamoli, Chap. IX, para 114, page 349) (38)

Paramatthamañjūsā phát biểu “Ở bên trong” nghĩa là gosarajjhatta. Ý nghĩa ở bên trong ‘là ở đối tượng thiền’ … ‘Tâm của tôi sẽ được vững chắc’ nghĩa là ‘tâm sẽ không tán loạn, vẫn khắn khít vào một đối tượng’. Do đó nó hoàn toàn vững chắc. ‘Hoàn toàn vững chắc’ nghĩa là ‘tâm sẽ được an trú’.

‘Đã phát sinh’ nghĩa là chưa được chế ngự. ‘Ác’ nghĩa là thấp hèn, ‘Các bất thiện pháp’ nghĩa là các bất thiện pháp như dục tham, theo ý nghĩa rằng chúng phát sinh từ vô minh”.

‘Chỉ là sự nhất tâm’, nghĩa là ‘định được chứng đạt nhưng chưa được khéo tu tập bởi hành giả’.

Chỉ là sự nhất tâm đó được gọi là định căn bản bởi vì nó là căn bản của định riêng biệt. Điều đó sẽ được bàn đến sau. Chỉ là sự nhất tâm đó được xem là sát na định như trong đoạn văn: ‘Tôi làm cho tự tâm vững chắc, tôi an tịnh nó, tôi làm cho nó chuyên nhất, định tâm’. Trong những bài giảng nọ, sau khi nói, “Này chư tỳ kheo, tôi đầy tràn nỗ lực, tôi quyết tâm. Tâm tôi được an trú và định tĩnh”,

(Thế Tôn) tiếp tục, bắt đầu với những từ ‘viễn ly dục tham’. Vì lý do này, giống như s nhất tâm được đề cập ở ngay ban đầu được xem là sát na định, cũng như thế nó nên được xem là sát na định trong bài giảng đó. (Paramatthamañjūsā, 387). (39)

Việc xem xét cẩn thận những đoạn văn được đề cập ở trên trong Saṅkhitta Sutta, Bhūmicāla Vagga, Aṭṭhaka Nipāta, Aṅguttara Nikāya và Chú giải kinh này, Visuddhimagga và Chú giải là Paramattha-mañjūsā sẽ suy ra thực tế là sát na định, được biết theo cách khác là định căn bản, nó có khả năng chế ngự các triền cái như dục tham.

Sự khẳng định của Ven. Kheminda rằng “sát na định khởi lên sau khi chứng thiền trong thời gian thực hành quán xác thực được thực hiện bởi người đã xuất thiền là đối nghịch hoàn toàn với những gì được phát biểu trong Paramatthamañjūsā”.

“Chỉ là s nhất tâm” nghĩa là định được chứng đạt nhưng chưa được khéo tu tập bởi hành giả. Chỉ là sự nhất tâm đó được gọi là định căn bản bởi vì nó là căn bản của những định riêng biệt mà sẽ được bàn sau. Định căn bản đó … được xem là sát na định. (40)
Tôi không biết Ven. Kheminda có cố gắng để chứng thiền (jhāna) hay không, nhưng những bài báo của vị ấy bộc lộ mong muốn đó để thực hiện thiền quán duy nhất sau khi chứng thiền. Do đó, vị ấy có vẻ không chú ý đến các kinh điển Pāḷi, các Chú giải và các Phụ chú giải mà phát biểu rằng các hành giả đã thiết lập trong giới, mặc dù không thiền, nhưng có thể chế ngự các triền cái trong quá trình thiền quán và chứng đạt đạo quả trí (magga-phala-ñāṇa), và hơn nữa, vì chính lý do này vị ấy cũng hiểu sai và giải thích sai các kinh luận. Giờ đây để vị ấy suy nghĩ chín chắn tôi sẽ trích dẫn thêm một số bài giảng của Đức Phật và các Chú giải, trong đó phát biểu rõ ràng rằng khi không có chứng thiền, hành giả có thể chế ngự các triền cái do nhờ thiền quán (vipassanā).

“Và lại nữa, này chư tỳ kheo, khi một tỳ kheo đang đi, vị ấy biết, ‘Tôi đang đi’; hoặc khi đang đứng yên, vị ấy biết ‘Tôi đang đứng yên’; và khi đang ngồi xuống, vị ấy biết ‘ Tôi đang ngồi xuống’ hoặc khi đang nằm, vị ấy biết ‘Tôi đang nằm’, vì thế dù thân của vị ấy được sử dụng như thế nào, vị ấy hiểu vị ấy là như thế đó. Trong khi vị ấy không lơ là, nhiệt tâm, kiên quyết như vậy, những ký ức và những mong cầu thuộc thế tục được từ bỏ; do sự từ bỏ chúng nội tâm được ổn định, an tĩnh, tập trung, định. Cũng như vậy, này chư tỳ kheo một tỳ kheo tu tập niệm về thân. (41) (The Middle Length Sayings, III, 90-91, page 130).
Trong Chú giải Kinh này, ‘những thứ thuộc thế tục’, nghĩa là ‘những thứ được kết hợp với năm dục lạc.’ Những ký ức và mong cầu’ nghĩa là ‘những tư tưởng lang thang’. Bởi vì chúng có thói quen lang thang’ chúng có tên là ‘sara’, ‘saranti’, nghĩa là lang thang’.

‘Bên trong’, nghĩa là ‘ở đối tượng của thiền’. ‘Được định’ nghĩa là ‘được an trú’, ‘như thể an chỉ định được chứng đạt’. (42)

---------
CHÚ THÍCH

(37) Vism. (I. 124) Yasmiṃ vihāre bahū āvāsā honti, tattha ekamekasmiṃ tīṇi tīṇi divasāni vasitvā yatth’assa cittaṃ ekaggaṃ hoti, tattha vasitabbaṃ.
(38) Vism. (I, 316) Yasmā so arahattassa upanissayasampanno, tasmā naṃ ovadanto āha: ‘Tasmātiha te bhikkhu evaṃ sikkhitabbaṃ, ajjhattaṃ me cittaṃ ṭhitaṃ bhavissati susaṇṭhitaṃ, na c’uppannā pāpakā akusalā dhammā cittaṃ pariyādāya ṭhassantīti. Evañhi te bhikkhu sikkhitabban’ti. (A. III, 121). Iminā pan’assa ovādena niyakajjhattavasena cittekaggatāmatto mūlasamādhi vutto. (see also A.C. III, 241-2)
(39) Vism C. (I, 386-7) Ajjhattanti gocarajjhatte, kammaṭṭhānārammaṇeti attho ... Cittaṃ ṭhitaṃ bhavissatīti bahiddhā avikkhippamānaṃ ekaggabhāve ṭhitaṃ bhavissati. Tato eva susaṇṭhitaṃ, suṭṭhu samāhitan’ti attho. Uppannāti avikkhambhitā. Pāpakāti lāmakā. Akusalā dhammāti kāmacchandādayo akosallasambhūtaṭṭhena akusalā dhammā… Cittekaggatāmattoti bhāvanamanuyuttena paṭiladdhamattaṃ nātisubhāvitaṃ samādhānaṃ. Taṃ pana upari vuccamānānaṃ samādhivisesānaṃ mūlakāraṇabhāvato ‘mūlasamādhī’ti vutto. Svāyaṃ cittekaggatāmatto ‘ajjhattam’eva cittaṃ saṇṭhapemi sannisādemi ekodiṃ karomi samādahāmī’(M I, 163) tiādīsu viya khaṇikasamādhi adhippeto. Yath’eva hi aññatthāpi ‘āraddhaṃ kho pana me bhikkhave vīriyaṃ ahosi asallīnaṃ…samāhitaṃ cittaṃ ekaggan’ti vatvā ‘vivicc’eva kāmehī’’ti (M% I, 26-164, A III, 22) ādivacanato paṭhamaṃ vuttacittekaggatā ‘‘khaṇikasamādhī’’ti viññāyati. Evamidhāpīti.
40.
Xem chú thích 39.
41. M (III, 132) Puna caparaṃ bhikkhave bhikkhu gacchanto vā ‘gacchāmī’ti’ pajānāti, ṭhito vā ‘ṭhitomhī’ti’ pajānāti, nisinno vā ‘nisinnomhī’ti’ pajānāti, sayāno vā ‘sayānomhī’ti’ pajānāti. Yathā yathā vā panassa kāyo paṇihito hoti, tathā tathā naṃ pajānāti. Tassa evaṃ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato ye gehasitā sarasaṅkappā, te pahīyanti. Tesaṃ pahānā ajjhattam’eva cittaṃ santiṭṭhati sannisīdati ekodi hoti samādhiyati. Evampi bhikkhave bhikkhu kāyagatāsatiṃ bhāveti.
42. MC. (IV, 102) Gehasitāti pañcakāmaguṇanissitā. Sarasaṅkappāti dhāvanasaṅkappā. Sarantīti hi sarā, dhāvantīti attho. Ajjhattamevāti gocarajjhattasmiṃyeva. (Ibid 101) Samādhiyatīti sammā ṭhapiyati, appanāpattaṃ viya hoti.

---------

Người dịch ghi chú:

Vism. = Visuddhimagga
Vism C. = chú giải Visuddhimagga
M.= Majjhima Nikāya
MC. = chú giải Majjhima Nikāya
---------

SÁT NA ĐỊNH

Bác Bỏ Phần Đáp Trả Phản Bác I-V

Tác Giả: Sayādaw U Ñāṇuttara Agga Mahā Paṇḍita (Miến Điện)

 

Trong Putta Sutta, Macala Vagga, Catukka Nipāta, Aṅguttara Nikāya, một A la hán cỗ xe thuần quán (suddha-vipassanāyānika arahant) , hoặc một A la hán quán khô (sukkhavipassaka arahant) được so sánh với một hoa sen Puṇḍarīka, cánh của hoa không đến một trăm. “Và này chư tỳ kheo, như thế nào một người là một sa môn hoa sen xanh?

Ở đây một tỳ kheo do sự diệt tận các lậu hoặc (āsavas) đã đạt đến sự giải thoát của tâm, sự giải thoát do tuệ mà thoát khỏi các lậu hoặc và sau khi thực chứng, vị ấy trú trong đó. Tuy nhiên vị ấy không có trú tám giải thoát bằng kinh nghiệm bản thân. “Như vậy này chư tỳ kheo, một người là sa môn hoa sen xanh”. (43) (VII (87) Kinds of Recluses (a), page 96&97, The Book of Gradual Sayings II, PTS)

(Ghi chú: Puṇḍarīka là một hoa sen trắng, không phải hoa sen xanh. Xem D III 2, 223, Dialogues of the Buddha, Part III, 224)
Chú giải của Kinh này giải thích như vầy “Samaṇa Puṇḍarīka” nghĩa là ‘một sa môn có thể so sánh với một hoa sen Puṇḍarīka’; ‘một hoa sen Puṇḍarīka’ nghĩa là “một hoa sen với ít hơn một trăm cánh’.

‘Sa môn hoa sen trắng (Samaṇa-puṇḍarika)’ nghĩa là ‘A la hán quán khô (sukkha-vipassaka arahant); một A la hán như thế, không có thiền và thông (jhānabhiññānaṃ abhāvena), không hoàn toàn về những phẩm chất và do đó, có tên là samaṇa-Puṇḍarīka’. (44)

Ở đây ‘Jhāabhiññānaṃ’ không nên được hiểu là "jhānena nibbata jhānassa vā abhiññā jhānabhiññā" trong hình thức của từ kép tappurisa. Bởi vì nếu được hiểu như thế thì 'jhāabhiññā' sẽ chỉ có nghĩa là abhiññā và không có thiền, bằng cách ấy mâu thuẫn với tám giải thoát (aṭṭha vimokkha) được đề cập trong Putta Sutta.

Tôi sẽ giải thích thêm. Trong Kinh này, Đức Phật giải thích một cách đặc biệt tám Samāpatti hoặc tám giải thoát. Phật không đề cập đến abhiññā. Tuy nhiên, nhà chú giải ghép đôi thông hợp thế (lokiya abhiññā) với thiền vì lý do khi thiền được phát biểu, thì cũng có nghĩa là sản phẩm phụ của thiền là thông hợp thế.

Tuy nhiên thiền là yếu tố nổi bật. Vì thế, để phù hợp với ngôn từ kinh điển: “tám giải thoát”, ‘jhānabhiññā’ phải được hiểu là ‘'jhānāni ca abhiññāyo ca jhānabhiññāyo' trong hình thức của từ kép dvanda.

Lại nữa, chúng ta nên lưu ý rằng trong Chú giải này, thiền (jhāna) không có nghĩa là thiền siêu thế (lokuttarā jhāna). Y như thiền nghĩa là thiền hợp thế (lokiya jhāna), cũng vậy thông nghĩa là thông hợp thế.

Bởi vì giải thích Chú giải này đề cập đến những phẩm chất của A la hán đó nên Chú giải không cho phép bất cứ xem xét nào có bao gồm thông siêu thế (lokuttarā abhiññā) hay không.

Trong Chú giải trên, xét theo các cum từ ‘không có thiền (jhāna) và thông (abhiññā)’ và ‘không hoàn toàn về những phẩm chất’, là rõ ràng rằng A la hán quán khô (sukkhavipassaka arahant) không phải là một người chứng đạt thiền.

Nếu vị ấy không phải là người chứng thiền, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng vị ấy chứng đạt Tâm thanh tịnh không bằng cách thiền định (jhānasamādhi), nhưng bằng cách sát na định trong quá trình thiền quán.

Trong trường hợp đó, có bất cứ cần thiết nào để tu tập thiền ở giai đoạn Tâm thanh tịnh không? Chắc chắn không. Với tất cả điều đó, nếu bất cứ ai giải thích ‘không có jhāna-abhiññā' là ý nghĩa ‘thiền quán được thực hiện không có thiền (jhāna) làm căn bản, dù chứng thiền’ thì vị ấy đang đi ngược lại những lời dạy của Đức Phật cũng như các Chú giải Phật ngôn.

Trong Samādhi Sutta II, Asura Vagga, Catuka Nipāta, Aṅguttara Nikāya cũng chứng nhận rõ nét cho sự tồn tại của người có cỗ xe thuần quán (suddhavipassanāyānika). “Ở đây, này chư tỳ kheo, một người nào đó là người có được (lābhi) nội tâm tịnh chỉ (samatha), nhưng không có được (na lābhi) tuệ quán (vipassana) cao thượng trong các pháp”.

“Lại nữa, ở đây này chư tỳ kheo, một người nào đó có được tuệ quán (vipassana) cao thượng trong các pháp, nhưng không có được nội tâm tịnh chỉ …” Lúc đó, này chư tỳ kheo, người mà có được tuệ quán cao thượng trong các pháp, nhưng không có được nội tâm tịnh chỉ nên nỗ lực để an trú cái này và chứng cái kia. Rồi một lúc nào đó sẽ đến vị ấy là người được cả hai”. (45) (ii (92) Concentration (a) and iii 93 Concentration (b) pages 101-102. The Book of Gradual Sayings, II, PTS)
Cần phải được nêu ra rằng bản dịch tiếng Anh của đoạn cuối là không chính xác, bởi vì kinh văn Pāḷi nghĩa là … “Thế thì, này chư tỳ kheo, người mà đã được tuệ quán cao thượng trong các pháp, nhưng không có được nội tâm tịnh chỉ, đã an trú trong tuệ quán cao thượng nên nỗ lực để chứng tâm tịnh chỉ”.

Cùng dịch giả ((F. L. Woodward)) đã dịch 'patiṭṭhāya' theo cách này trong Bāhiya Sutta: ‘Thực vậy, này Bāhiya, khi đã an trú trong giới, ông sẽ phải tu tập tứ niệm xứ như vậy ….’ The Book of Kindred Sayings V, Book III. Chapter II (V), page 145, P. T.S). Bản dịch này phù hợp với kinh văn Pāḷi.

Chú giải Samādhi Sutta II giải thích như vầy: “Nội tâm tịnh chỉ” nghĩa là “tâm định kết hợp với tâm an chỉ (appanācitta)”. “Tuệ quán cao thượng trong các pháp (saṅkhāra)” nghĩa là “quán trí (vipassanañāṇa) thâm nhập các hành (saṅkhāra)”. Chính là tuệ cao thượng mà có được một quán trong các hành (saṅkhāra) hoặc năm uẩn (khandhā). Do đó, nó có tên là tuệ cao thượng có khả năng thâm nhập các hành. (46)
Trong Kinh này, những từ lābhī và na lābhī đề cập lần lượt đến sự chứng đạt, hay nói cách khác là sự chứng đạt jhānasamādhi và vipassanā. Chúng không đề cập đến sự chứng đạt, hay nói cách khác là sự chứng pādaka jhāna. Điểm này nên được chú ý cẩn thận.

Người quán khô (sukkha-vipassaka) đó không phải là người chứng thiền, chú giải Uparipaṇṇāsa phát biểu như vầy: Nếu phạm vi của samāpattilābhī adhimānikā (người tự tin thái quá như một A la hán có samāpatti) được phát biểu, nó bao trùm phạm vi của sukkhavipassaka adhimānika (người làm công việc quán khô mà nghĩ mình là một A la hán)

Nếu phạm vi của một A la hán có samāpatti được phát biểu, nó bao trùm phạm vi của một A la hán quán khô. (47) (majjhima Commentary, IV, 36)
Trong chú giải này, cặp samāpattilābhi adhimānika sukkha-vipassaka adhimānika và cặp samāpattilābhī arahant và sukkha-vipassaka arahant nêu rõ sự thực rằng người quán khô (sukkha-vipassaka) không phải là người chứng thiền. Nếu người quán khô là một người chứng thiền, việc ghép đôi không nên được làm theo cách thức này.
Sự quan tâm của Ven. Kheminda có thể được mời gọi đến bài Kinh Susima Paribbājaka Sutta, Mahāvagga, Nidānavagga Saṃyutta, trong đó Thế Tôn phát biểu hết sức rõ ràng rằng A la hán quán khô (sukkha-vipassaka arahant) không chứng thiền. Paribbājaka Susima gia nhập Tăng chúng để học những lời dạy của Đức Phật để mà ông và nhóm của ông có thể thuyết lại các pháp đó vì những lợi lộc trần thế.

Một hôm ông hỏi các tỳ kheo đã chứng đạt A la hán rằng họ đã chứng năm thông hợp thế (lokiya abhiññā) và thiền vô sắc hay không (arūpajhāa). Các A la hán này trả lời rằng các vị đã được giải thoát do nhờ tuệ. Susima nói: “Tôi không biết đầy đủ vấn đề được phát biểu chính xác bởi các tôn giả”. Các A la hán nói: “Dù ông biết việc đó hay không. Chúng tôi đã được giải thoát do nhờ tuệ”.

Không thỏa mãn với trả lời của các vị A la hán này, Susima đến gặp Đức Phật và thuật lại tất cả sự việc. Đức Phật giải thích vấn đề đó như vầy “Này Susima, dù ông có biết được điều đó hay không, trí về luật của nhân (và quả) đến trước … ....(dhammaṭhitiñāṇa …và trí về Niết bàn đến sau. Vậy thì, ông nghĩ gì, này Susima?

Sắc là thường hay vô thường? Vô thường, bạch Thế Tôn… Này Susima, ông thấy điều này không? Già và chết do duyên sinh. Đúng như vậy, bạch Thế Tôn … Này Susima, ông thấy điều này không? Khi vô minh diệt hành diệt. Đúng như vậy, bạch thế tôn. Thế thì, này Susima, biết như vậy, thấy như vậy ông có chứng nghiệm những lọai thần thông sai biệt không? Thưa không, bạch Thế Tôn”. (48) (See Kindred sayings, II 88-89 PTS).
Xem xét những trường hợp trong đó Susima trở thành một tỳ kheo, Susima đã nói gì khi trả lời những câu hỏi của Đức Phật và trong khi làm thế ông chứng đạt quả A la hán ở ngay trước mặt Đức Phật. Ven. Kheminda lẽ ra có thể hiểu rằng Susima không phải là người chứng thiền và đã thực chứng chân lý ở trước mặt Đức Phật.

Điều đó hoàn toàn rõ, thế thì, điều khẳng định của Ven. Kheminda rằng người có cỗ xe thuần quán (suddha-vipassanāyānika) chứng đạt Tâm thanh tịnh bằng cách thiền là sai. Lại nữa, xem xét trả lời của các A la hán đó: “Chúng tôi đã được giải thoát do nhờ tuệ”, thực là hoàn toàn rõ ràng rằng quan điểm của Ven. Kheminda là sai. Điều vị ấy sai sẽ rõ hơn bằng việc xem xét chú giải sau đây:

“Chúng tôi đã được giải thoát do nhờ tuệ” nghĩa là “Chúng tôi không chứng thiền, vì thế chúng tôi là bậc quán khô (sukkhavipassaka) đã được giải thoát do nhờ tuệ”.

"Dhammaṭhitiñāṇa" nghĩa là ‘quán trí (vipassanāñāṇa)’. Quán trí đó đến trước. ‘Trí về niết bàn’ nghĩa là ‘đạo trí (maggañāṇa) mà phát sinh ở giai đoạn cuối của thiền quán’. Đạo trí (maggañāṇa) đó đến sau. Vì thế Đức Phật đã dạy như vậy.

“Tại sao Đức Phật dùng ngôn từ bắt đầu với dù ông biết được điều đó hay không”? Phật nói như thế để cho thấy rằng trí (ñāṇa) có thể phát sinh như vậy cũng không cần có thiền định (jhāna-samādhi).

Những gì Đức Phật muốn nói là thế này: “Này Susima, đạo và quả không phải là những hiệu quả của định (samādhi), không phải là kết quả của định, không phải là sự toàn hảo của định; đạo và quả là những hiệu quả của quán (vipassanā), là kết quả của quán, là sự toàn hảo của quán, vì thế, dù ông biết điều đó hay không, quán trí (vipassanāñāṇa) đến trước và trí về Niết bàn đến sau”.

“Bấy giờ, khi biết khả năng của Susima, Đức Phật giảng về ba tướng của đời sống, bắt đầu với, này Susima, ông nghĩ gì, sắc là thường hay vô thường? Ở cuối bài giảng, Susima chứng quả A la hán. Lúc đó, muốn kiểm tra Susima, Đức Phật đã đặt những câu hỏi cho vị ấy, như ‘Già và chết do duyên sinh. Này Susima, ông thấy điều này không?” Tại sao Đức Phật hỏi Susima những câu hỏi như, ‘Ông có chứng nghiệm (những năng lực thần thông) không?’ Bởi vì Đức Phật muốn nhấn mạnh sự thực về A la hán quán khô (sukkhavipassaka arahant), không có thiền (jhāna). Điều đó chuyển tải ý nghĩa ‘Ông không phải là người quán khô duy nhất mà không có thiền. Những tỳ kheo kia cũng như thế”. (49)

Trong Kinh này, cho thấy rõ ràng rằng Susima cũng như các vị A la hán mà đã trả lời những câu hỏi của Susima không chứng đạt năm thông hợp thế và các thiền vô sắc. Từ điều này, người ta không nên hiểu rằng các vị đã chứng đạt các thiền sắc giới (rūpa jhāna).

Các thông hợp thế là những sản phẩm phụ của các thiền sắc giới. Khi được phát biểu rằng các thông hợp thế không được chứng đạt, theo ý này cũng có nghĩa là các thiền sắc giới không được chứng đạt.

Thực ra, bởi vì Susima không đặt một câu hỏi trực tiếp với các A la hán kia là các vị đã chứng các thiền sắc giới hay không, trong Kinh này không có đề cập trực tiếp nào đến các thiền sắc giới. Ngay cả khi Susima đã hỏi như thế, các A la hán kia không có lựa chọn ngoại trừ trả lời như vầy: “Chúng tôi đã được giải thoát do nhờ tuệ”.

Đó là lý do tại sao trong chú giải Kinh này, “Chúng tôi đã được giải thoát do nhờ tuệ”, câu đó chứng thực rằng các A la hán kia là nijjhānaka sukkhavipassaka (bậc quán khô không có thiền).

Ở đây, từ ngữ nijjhānaka nên được định nghĩa như vầy: “Natthi jhānaṃ etesan-ti nijjhāna, eva nijjhānaka!’ Từ nijjhānaka đang bổ nghĩa này không phải là một tính ngữ byavacchedaka mà loại trừ nghĩa của từ không liên quan được bổ nghĩa, nhưng là tính ngữ bhūtakathana mà khẳng định ý nghĩa của sukkhavipassaka mà nó bổ nghĩa. Do đó, nijjhānaka không nên được hiểu là có cùng nghĩa với nijjhānaṃ của cụm từ nijjhānaṃ khamanti trong Alagaddūpama Sutta. Người ta không tìm thấy trong bất cứ văn bản Pāḷi nào, Chú giải và Phụ chú giải nào mà nijjhānaka mang ý nghĩa tương tự như nijjhānaṃ.

Xét thấy phát biểu chú giải được đề cập ở trên ‘Đức Phật đã thuyết như thế cũng để cho thấy rằng ñāṇa có thể phát sinh như vậy cũng không có thiền định (jhāna-samādhi)’, thực rõ ràng rằng từ nijjhānaka này phải được hiểu theo nghĩa ‘không có thiền (jhāna)’.

Sự chính xác của giải thích này được khẳng định bởi lời diễn giải sau đây về câu ‘cũng không có thiền định” trong Paramattha-pakāsinī. ‘Cũng không có thiền định (jhāna-samādhi)’ nghĩa là “cũng không có định (samādhi), đã phát triển trước đó (purima-siddhaṃ), khi đạt đến tướng chỉ (samatha-lakkhaṇā). Điều này được nói khi đề cập đến người có cỗ xe quán (vipassanāyānika)”. (50)

Suy ra theo Phụ chú giải này, ý nghĩa cũng rõ rằng quán trí (vipassanā-ñāṇa) có thể sinh mà không có thiền định (jhāna-samādhi) phát triển trước đó, khi đạt đến tướng định (Samādhi-lakkhaṇā) và vì thế nijjhānaka phải được giải thích là ‘không có thiền (jhāna)’. Đó là lý do tại sao nhà Phụ chú giải chỉ ra rằng câu nói ‘Cũng không có thiền định (jhāna-samādhi)’ khi đề cập đến người có cỗ xe quán (vipassanāyānika) hoặc người quán khô (sukkhavipassaka).

Chú giải và Phụ chú giải chỉ ra rất rõ ràng rằng những bậc quán khô (sukkhavipassaka) hoặc những bậc thuần quán (suddhavipassanāyānika) không chứng đạt thiền. Do đó, khẳng định của Ven. Kheminda rằng người có cỗ xe quán (vipassanāyānika), sau khi chứng đạt Tâm thanh tịnh bằng cách thiền, bắt đầu thiền quán để chứng Kiến thanh tịnh v.v… là đối nghịch với Chú giải và Phụ chú giải.
------------
CHÚ THÍCH

43. A. (I, 399) Kathañca bhikkhave puggalo samaṇapuṇḍarīko hoti? Idha bhikkhave bhikkhu āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭh’eva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati, no ca kho aṭṭha vimokkhe kāyena phusitvā viharati. Evaṃ kho bhikkhave puggalo samaṇapuṇḍarīko hoti.

44. AC. (II, 322) Samaṇapuṇḍarīkoti puṇḍarīkasadiso samaṇo. Puṇḍarīkaṃ nāma ūnasatapattaṃ saroruhaṃ. Iminā sukkhavipassakakhīṇāsavaṃ dasseti. So hi jhānābhiññānaṃ abhāvena aparipuṇṇaguṇattā samaṇapuṇḍarīko nāma hoti.

45. A. (I. 405) Idha pana bhikkhave ekacco puggalo lābhī hoti adhipaññādhammavipassanāya, na lābhī ajjhattaṃ cetosamathassa… Tatra, bhikkhave yvāyaṃ puggalo lābhī adhipaññādhammavipassanāya na lābhī ajjhattaṃ cetosamathassa, tena bhikkhave puggalena adhipaññādhammavipassanāya patiṭṭhāya ajjhattaṃ cetosamathe yogo karaṇīyo. So aparena samayena lābhī c’eva hoti adhipaññādhammavipassanāya, lābhī ca ajjhattaṃ cetosamathassa.

46. AC. (II, 325) ajjhattaṃ cetosamathassāti niyakajjhatte appanācittasamādhissa. Adhipaññādhammavipassanāyāti saṅkhārapariggāhakavipassanāñāṇassa. Tañhi adhipaññāsaṅkhātañca, pañcakkhandhasaṅkhātesu ca dhammesu vipassanābhūtaṃ, tasmā ‘‘adhipaññādhammavipassanā’’ti vuccati.

47. MC. (IV, 36) Samāpattilābhino hi adhimānikassa nighaṃse kathite sukkhavipassakassapi adhimānikassa kathito’va hoti. Samāpattilābhino ca khīṇāsavassa kathite sukkhavipassakakhīṇāsavassa kathitova hoti.

48. (I, 344) Ājāneyyāsi vā tvaṃ susima na vā tvaṃ ājāneyyāsi, atha kho dhammaṭṭhitiñāṇaṃ pubbe pacchā nibbāne ñāṇaṃ. Taṃ kiṃ maññasi susima rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā’’ti? Aniccaṃ, bhante... ‘‘Jātipaccayā jarāmaraṇan’ti, susima passasī’’ti? ‘‘Evaṃ, bhante’’. ‘‘‘Bhavapaccayā jātī’ti, susima, passasī’’ti? Evaṃ, bhante… ‘‘Avijjānirodho’ti susima, passasī’’ti? Evaṃ, bhante. Api pana tvaṃ, susima, evaṃ jānanto evaṃ passanto anekavihitaṃ iddhividhaṃ paccanubhosi…? No hetaṃ bhante.

49. SC. (II. 117) Paññāvimuttā kho mayaṃ āvusoti āvuso mayaṃ nijjhānakā sukkhavipassakā paññāmatten’eva vimuttāti dasseti… Dhammaṭṭhitiñāṇanti vipassanāñāṇaṃ, taṃ paṭhamataraṃ uppajjati. Nibbāne ñāṇanti vipassanāya ciṇṇante pavattamaggañāṇaṃ, taṃ pacchā uppajjati. Tasmā bhagavā evamāha.

Ājāneyyāsi vātiādi kasmā vuttaṃ? Vināpi samādhiṃ evaṃ ñāṇuppattidassanatthaṃ. Idañhi vuttaṃ hoti: “susima, maggo vā phalaṃ vā na samādhinissando, na samādhiānisaṃso, na samādhissa nipphatti vipassanāya pan’eso nissando, vipassanāya ānisaṃso, vipassanāya nipphatti. Tasmā jāneyyāsi vā tvaṃ, na vā tvaṃ jāneyyāsi atha kho dhammaṭṭhitiñāṇaṃ pubbe, pacchā nibbāne ñāṇanti.
Idānissa paṭivedhabhabbataṃ ñatvā teparivaṭṭaṃ dhammadesanaṃ desento taṃ kiṃ maññasi, susima? Rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vātiādimāha? Te parivaṭṭadesanāvasāne pana thero arahattaṃ patto. Idānissa anuyogaṃ āropento jātipaccayā jarāmaraṇanti, susima, passasītiādimāha. Api pana tvaṃ, susimāti idaṃ kasmā ārabhi? Nijjhānakānaṃ sukkhavipassakabhikkhūnaṃ pākaṭakaraṇatthaṃ. Ayañhettha adhippāyo – na kevalaṃ tvameva nijjhānako sukkhavipassako, etepi bhikkhū evarūpāyevāti. Sesaṃ sabbattha pākaṭamevāti.

50. SSC. (II, 124) Vināpi samathalakkhaṇappattaṃ purimasiddhaṃ vināpi samādhin’ti vipassanāyānikaṃ sandhāya vuttaṃ.
--------
Người dịch ghi chú:

A= Aṅguttara Nikāya

AC. = chú giải Aṅguttara Nikāya

MC = chú giải Majjhima Nikāya

SC = chú giải Saṃyutta Nikāya

SSC. = phụ chú giải Saṃyutta Nikāya

----------------
SÁT NA ĐỊNH

Bác Bỏ Phần Đáp Trả Phản Bác I-VI

Tác Giả: Sayādaw U Ñāṇuttara Agga Mahā Paṇḍita (Miến Điện)


Cũng suy ra theo sự thực này rằng nhiều người đã chứng đạt đạo quả trí (maggaphalañāṇa) trong khi lắng nghe những bài giảng của Đức Phật, điều đó không thể phủ nhận rằng Tâm thanh tịnh có thể phát sinh với người không có chứng đạt thiền (jhāna).

Không nghi ngờ gì nữa rằng trong khi những người đó đang quán chiếu về những gì họ đã nghe, các triền cái bị chế ngự. Tâm thanh tịnh được chứng đạt, quán trí (vipassanañāṇa) phát sinh theo trình tự tiến triển, đến đỉnh cao trong việc thực chứng đạo quả trí (magga-phalañāṇa).

Sự thực này được xác nhận bởi các kinh điển Pāḷi, một số trong đó sẽ được cho thấy bên dưới.

Upāli Sutta, Majjhima Paṇṇāsa, Majjhima Nikāya, cho thấy cách Upāli thực chứng chân lý. “Lúc đó Thế Tôn giảng cho Upāli một bài giảng theo tuần tự … Khi Thế Tôn nhận thấy rằng tâm của gia chủ Upāli, được chuẩn bị, dễ uốn nắn, thoát khỏi các chướng ngại, phấn khởi, trong sáng. Lúc đó Thế Tôn khai m cho Upāli pháp cao thượng của chư Phật, tức là Khổ, Nhân của khổ, sự Diệt khổ và con Đường diệt khổ. Như tấm vải sạch, thoát khỏi vết bẩn, sẽ thấm thuốc nhuộm toàn hảo, cũng thế, trong khi ngồi tại chỗ đó, pháp nhãn không tỳ vết , không ô nhiễm đã phát sinh cho gia chủ Upāli.

Gia chủ đã biết: “Bất cứ cái gì phát sinh do nhân phải diệt hoàn toàn không thể tránh được’ (51) (The Wheel, Nos. 98-99 B. P. S. Translated by Nārada Thera and Mahinda Thera).
Trong chú giải Kinh này, có lời giải thích như vầy: “Pháp nhãn” nghĩa là ‘Ba đạo (Dự lưu đạo (Sotāpatti magga), Nhất lai đạo (Sakadāgāmi magga) và Bất lai đạo (Anāgāmi magga )’ trong Brahmāyu Sutta sắp đến và là ‘A la hán đạo (āsavakkhayañāṇa (arahatta magga)’ trong Cūḷa Rāhulovāda Sutta, trong khi đó Pháp nhãn có nghĩa là ‘Dự lưu đạo’ trong Upāli Sutta này. (52)

Kinh này và Chú giải cho thấy một cách sinh động rằng Upāli đã chế ngự các triền cái và chứng đạt Dự lưu đạo (Sotāpattimagga) trong khi lắng nghe Pháp của Đức Phật. Về việc chế ngự các triền cái và chứng đạt Tâm thanh tịnh lúc khởi đầu và chứng đạt Dự lưu đạo ở lúc cuối, chúng ta nên hiểu theo phương pháp migapadavaḷañjana (những dấu chân nai) rằng quán trí (vipassanañāṇa) như nāma-rūpa-paricchedañāṇa phát sinh trong tâm theo trình tự tiến triển.
Cũng suy ra theo sự thực rằng Upāli là đệ tử thân thiết và người ủng hộ của Nigaṇṭha, và ông đến với Đức Phật để khẩu chiến và thực chứng chân lý ngay lúc đó, sự chế ngự các triền cái của ông và chứng đạt Tâm thanh tịnh không do nhân duyên thiền định (jhāna-samādhi).

Giờ đây chúng ta hãy xem làm thế nào du sĩ (Paribbājaka) Sāriputta thực chứng chân lý sau khi nghe một kệ ngôn từ tôn giả Assaji, một đệ tử của Đức Phật. Sāriputta hỏi tôn giả Assaji rằng tôn giả tin theo Pháp của ai? Tôn giả Assaji thốt ra Pháp ng ngắn gọn này:

“Các pháp nào phát sinh từ một nhân,

Bậc Như Lai đã thuyết về nhân của các pháp này,

Và cũng thuyết pháp nào là sự chấm dứt của chúng,

Vị đại sa môn đã dạy như thế”.
Khi tôn giả Sāriputta đã nghe kệ ngôn này, pháp nhãn không bụi, không ô nhiễm đã phát sinh, đó là “bất cứ cái gì thuộc về bản chất sinh, tất cả cái đó thuộc về bản chất diệt”.
Khi du sĩ Moggalāna đã nghe pháp này từ tôn giả Sāriputta, pháp nhãn đã phát sinh trong tâm vị ấy theo cách tương tự. (53)
(Xem Book of Discipline, Part IV, Page 53-54. Sacred Books of the Buddhists, Vol. XIV).

“Lại nữa, Đức Phật biết rõ suy tư trong tâm trí của mười hai vạn bà la môn và gia chủ ở Māgadha, đã thuyết một bài pháp tuần tự … Khi Đức Phật biết rằng tâm trí của họ đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không có các triền cái, phấn khởi, hân hoan, kế đó Phật giải thích cho họ lời dạy về các pháp mà chư Phật tự giác ngộ: khổ, nhân sinh khổ, sự diệt khổ và Đạo. Khi họ (đang ngồi) tại những chỗ ngồi đó, pháp nhãn, không bụi đã phát sinh cho họ, đó là ‘Bất cứ cái gì có bản chất sinh, tất cả cái đó có bản chất diệt’. Một vạn còn lại tự tuyên bố là những cư sĩ. (54) (ibid, Pages 48-49). ‘Pháp nhãn’ nghĩa là ‘Dự lưu đạo trí (Sotāpatti-maggañāṇa)’. (55)

Vua Bimbisāra và dân chúng Māgadha … một trăm và mười ngàn tất cả đã cho chúng ta biết … không chứng đạt thiền nhưng chế ngự các triền cái, chứng đạt Tâm thanh tịnh và cuối cùng chứng Dự lưu đạo (Sotāpatti magga) bằng cách quán chiếu Pháp trong khi lắng nghe những bài giảng của Đức Phật.

Lại nữa, pháp nhãn đã phát sinh theo cách tương tự cho thanh niên Yasa thuộc một gia đình giàu có, cha mẹ, vợ, năm mươi người bạn của anh. (56) (ibid, Pages 23-28)
Giờ đây chúng ta hãy xem làm thế nào Bāhiya Dāruciriya thực chứng chân lý “Bāhiya mặc y phục bằng vỏ cây … được quý mến, kính trọng, hâm mộ, sùng bái, tôn kính dành cho ông… có nhiều y, thức ăn khất thực, giường, chỗ ngồi, những tiện nghi và thuốc trị bệnh”. Bāhiya tự hỏi ông có phải là một A la hán hay không. Vì thế một vị chư thiên (devatā), trước đây là bạn đạo của ông, đến nơi ông ở và bảo ông rằng ông không phải là một A la hán.

Bāhiya lòng đầy hối hận và kế đó hối hả đến gặp Thế Tôn và thỉnh cầu Thế Tôn chỉ giáo
Thế Tôn khuyên răn Bāhiya với lời dạy súc tích “Này Bāhiya, thế thì ông phải tự học tập: “Trong cái được thấy, sẽ chỉ là cái được thấy, trong cái được nghe chỉ là cái được nghe ….” Ngay sau đó, nhờ giáo pháp súc tích này của Thế Tôn, do không còn chấp thủ, Bāhiya từ lúc đó đã giải thoát tâm khỏi các lậu hoặc. (57) (Udāna: Pages 8-9, Sacred Books of the Buddhists).

“Bāhiya, trong khi lắng nghe bài giảng này của Đức Phật, đã thiết lập trong giới và tâm an tịnh, đã tu tập thiền quán và có thắng trí nhanh (khippa abhiññā), đã chế ngự tất cả lậu hoặc và trở thành một A la hán đạt đến tứ vô ngại giải (paṭisambhidāpatta arahant)”. (58) (Commentary to Udāna, 58)

Kinh Bāhiya và Chú giải cũng cho thấy một cách sinh động rằng Bāhiya Dāruciriya, mặc dù không có thiền đã chế ngự các triền cái và chứng Tâm thanh tịnh và có được quán (vipassanā), đạo trí (magga ñāṇa) và quả trí (phala ñāṇa) trong khi lắng nghe bài giảng súc tích của Đức phật. Thưc ra, vô số cá nhân, mặc dù không có thiền (jhāna), đã chế ngự các triền cái và thực chứng chân lý trong khi lắng nghe những bài giảng của Đức Phật.

Tôi đã đưa ra cho Ven. Kheminda thấy rõ  một số tài liệu đáng tin cậy nhất gồm có các kinh điển Pāḷi, các Chú giải và các Phụ chú giải để vị ấy xem xét và nếu vị ấy hiểu chúng, tôi hy vọng vị ấy sẽ từ bỏ quan điểm sai lạc của mình một cách rõ ràng rằng người có cỗ xe quán (vipassanāyānika) cũng tu tập thiền chỉ (samatha) ở giai đoạn Tâm thanh tịnh.

Trả Lời 3 (b)
Ven. Kheminda khẳng định rằng những từ ngữ samathayānika và vipassanāyānika xuất hiện duy nht ở giai đoạn Kiến thanh tịnh. Để dùng lại những từ riêng của vị ấy, “Trong sự ủng hộ khẳng định này vị ấy không trích dẫn bất cứ nguồn đáng tin cậy nào. Tuy nhiên, chỉ riêng những khẳng định không mang lại s thuyết phục”. Thực ra, khẳng định của vị ấy chỉ là hư cấu của trí tưởng tưọng

Khẳng định sai lạc này không đáng xử lý đặc biệt bởi vì trả lời dành cho số 3 (a) của tôi cũng bao trùm điểm đó. Tôi đã chỉ ra rằng samathayānika (người có cỗ xe chỉ) chứng đạt Tâm thanh tịnh bằng cách samatha (chỉ) và vipassanāyānika (người có cỗ xe quán) chứng Tâm thanh tịnh bằng cách vipassanā (quán).

Vì thế, samathayānika và vipassanāyānika được phân biệt ở giai đoạn Tâm thanh tịnh. Hai từ ngữ này đưa vào sử dụng ở chính giai đoạn đầu tiên và không phải ở giai đoạn Kiến thanh tịnh.

Như Ven. Kheminda hiểu, nếu vipassanāyānika, giống như samathayānika, tu tập samatha ở giai đoạn Tâm thanh tịnh và tu tập vipassanā duy nhất ở giai đoạn Kiến thanh tịnh, với lý do là samatha đi trước vipassanā, thế thì hành giả đó phải được xem là samathayānika và không phải vipassanāyānika. Nếu những gì Ven. Kheminda khẳng định là thực, nó đối nghịch với những gì được phát biểu trong Paṭisambhidāmagga (Đạo vô ngại giải):

“Như vậy, vipassanā đến trước, samatha đến sau”. (59) Tôi tự hỏi Ven. Kheminda có giải thích câu này theo cách này hay không: “Như vậy, samatha đến trước, vipassanā đến ở giữa và samatha đến sau”.

Nếu khẳng định của Ven. Kheminda giữ được chút hợp lý nào thì không thể có bất cứ vipassanāyānika nào: tất cả sẽ phải được phân loại như là samathayānika. Chắc chắn, điều đó không thể như thế. Do vậy, khẳng định của Ven. Khemind rằng vipassanāyānika tu tập định ở giai đoạn Tâm thanh tịnh không thể xảy ra, để dùng lại những từ riêng của vị ấy, “không phải trong lĩnh vực của hiện thực mà là của tưởng tượng”.

Vì vậy, quan điểm của Ven. Kheminda rằng những từ ngữ samathayānikavipassanāyānika xuất hiện duy nhất ở giai đoạn Kiến thanh tịnh đối nghịch hoàn toàn với những lời dạy của Đức Phât. Để thuyết phục rằng nhận xét của tôi là đúng, vị ấy nên xem lại cẩn thận phần Trả lời chi tiết của tôi dành cho mục 3 (a).
------------------
CHÚ THÍCH
51. M. (II, 43) Atha kho bhagavā … Yadā bhagavā aññāsi upāliṃ gahapatiṃ kallacittaṃ muducittaṃ vinīvaraṇacittaṃ udaggacittaṃ pasannacittaṃ, atha yā buddhānaṃ sāmukkaṃsikā dhammadesanā, taṃ pakāsesi – dukkhaṃ, samudayaṃ, nirodhaṃ, maggaṃ. Seyyathāpi nāma suddhaṃ vatthaṃ apagatakāḷakaṃ sammad’eva rajanaṃ paṭiggaṇheyya, evam’eva upālissa gahapatissa tasmiṃyeva āsane virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi “yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman”ti.

52. MC. (III, 65) Dhammacakkhunti upari brahmāyusutte tiṇṇaṃ maggānaṃ, cūḷarāhulovāde āsavakkhayass’etaṃ nāmaṃ. Idha pana sotāpattimaggo adhippeto.

53..  Vin. (III, 51) Atha kho āyasmā assaji sāriputtassa paribbājakassa imaṃ dhammapariyāyaṃ abhāsi:

‘‘Ye dhammā hetuppabhavā, tesaṃ hetuṃ tathāgato āha, tesañca yo nirodho, evaṃvādī mahāsamaṇo’’ti.

Atha kho sāriputtassa paribbājakassa imaṃ dhammapariyāyaṃ sutvā virajaṃ … nirodhadhamman”ti.

54. Vin, (III, 47) Atha kho bhagavā tesaṃ dvādasanahutānaṃ māgadhikānaṃ brāhmaṇagahapatikānaṃ cetasā cetoparivitakkamaññāya anupubbiṃ kathaṃ kathesi…Yadā te bhagavā aññāsi kallacitte muducitte vinīvaraṇacitte udaggacitte pasannacitte, atha yā buddhānaṃ sāmukkaṃsikā dhammadesanā, taṃ pakāsesi dukkhaṃ samudayaṃ nirodhaṃ maggaṃ… ekādasanahutānaṃ māgadhikānaṃ brāhmaṇagahapatikānaṃ bimbisārappamukhānaṃ tasmiṃ yeva āsane virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi “yaṃ kiñci samudayadhammaṃ, sabbaṃ taṃ nirodhadhamman”ti. Ekanahutaṃ upāsakattaṃ paṭivedesi.

55. VinC (III, 254) Dhammacakkhunti sotāpattimaggañāṇaṃ.

56. Vin. (III, 22) Yasassa kulaputtassa bhagavā anupubbiṃ kathaṃ kathesi…Yadā bhagavā aññāsi yasaṃ kulaputtaṃ kallacittaṃ, muducittaṃ, vinīvaraṇacittaṃ, udaggacittaṃ, pasannacittaṃ… yasassa kulaputtassa tasmiṃyeva āsane virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi “yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman”ti.

(Ibid. 23) Seṭṭhissa gahapatissa …(ibid, 25) Tāsaṃ (āyasmato yasassa mātā ca purāṇadutiyikā) … (ibid, 26) (Tesaṃ āyasmato yasassa cattāro gihisahāyakā)… (ibid, 27) Tesaṃ (paññāsamattā gihisahāyakā) tasmiṃyeva āsane virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi “yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman”ti.

57. Udn (85) Tasmāt’iha te bāhiya evaṃ sikkhitabbaṃ: “diṭṭhe diṭṭhamattaṃ bhavissati, sute sutamattaṃ bhavissati, mute mutamattaṃ bhavissati, viññāte viññātamattaṃ bhavissatī”ti. Evañhi te bāhiya sikkhitabbaṃ… Atha kho bāhiyassa dārucīriyassa bhagavato imāya saṃkhittāya dhammadesanāya tāvadeva anupādāya āsavehi cittaṃ vimucci.

58. UdnC. (84-85) So hi satthu dhammaṃ suṇanto eva sīlāni sodhetvā yathāladdhaṃ cittasamādhiṃ nissāya vipassanaṃ paṭṭhapetvā khippābhiññatāya tāvadeva sabbāsave khepetvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇi.

59. Ps. (287) Iti paṭhamaṃ vipassanā, pacchā samatho.

---------
Người dịch ghi chú:

M= Majjhima Nikāya

MC = chú giải Majjhima Nikāya

Vin. = Vinayapiṭaka

VinC = chú giải Vinayapiṭaka

Udn = Udāna

UdnC. = chú giải Udāna

Ps = Paṭisambhidāmagga
---------
SÁT NA ĐỊNH

Bác Bỏ Phần Đáp Trả Phản Bác I-VII

Tác Giả: Sayādaw U Ñāṇuttara Agga Mahā Paṇḍita (Miến Điện)

Trả Lời Số 4
Trong phần Bác bỏ I-I của tôi, Tôi đã đề cập rằng Ven. Kheminda ch yếu đưa ra mười bốn cáo buộc và những khẳng định trong phần Đáp trả của vị ấy dành cho phần Phản bác của tôi. Tôi đã đưa ra những trả lời các số 1, 2 và 3.

Ven. Kheminda viết: “S tu tập Bát thánh đạo được diễn tả theo hai cách: (i) bằng cách của ba uẩn là giới, định và tuệ; bằng cách của bảy thanh tịnh. Trong cả hai phương pháp này sự tu tập quán bắt đầu ở giai đoạn thứ ba là Kiến thanh tịnh. Trong khi đó hai giai đoạn đầu tiên đã được tu tập rồi”.

Hầu như không cần thiết để bác bỏ khẳng định này, bởi vì vấn đề này đã được giải quyết đầy đủ trong những phần trả lời dành các số 2 và 3. Trong đó tôi đã giải thích chi tiết, trích dẫn những đoạn văn liên quan từ các kinh điển Pāḷi, các Chú giải và các Phụ chú giải, rằng một vipassanāyānika, đã thiết lập trong giới, thực hành quán sát niệm xứ và trước hết chứng đạt Tâm thanh tịnh, được bao gồm trong định un, và theo trình tự thích hợp, chỉ có sau đó năm thanh tịnh mới bắt đầu với Kiến thanh tịnh, được bao gồm trong tuệ uẩn.

Nếu Ven. Kheminda hiểu giải thích này vị ấy cũng sẽ nhận thức rằng khẳng định của vị ấy là đối với một Suddha-vipassanāyānika (người có cỗ xe thuần quán) thì việc thiền quán (vipassanā) không bắt đầu ở giai đoạn Tâm thanh tịnh nhưng chỉ ở giai đoạn Kiến thanh tịnh là hoàn toàn sai. Tôi sẽ không đi xa hơn nhưng thay vì thế thúc giục  Ven. Kheminda xem xét lại cẩn thận những phần trả lời các số 2 và 3 của tôi.
 Tôi cũng có thể tạo một Pháp thí bằng cách trích dẫn một đoạn từ Maggaṅga Dīpanī của đại trưởng lão Ledī Sayādaw để tưởng niệm đến bậc khả kính..

‘Theo phương pháp Sukkha-vipassaka Puggala (người thực hành duy nhất quán), samatha (chỉ) và ānāpāna (thở ra và thở vào), v.v… không được thực hành riêng biệt. Sau khi thọ trì ba chi phần của giới uẩn trong Bát chánh đạo, sự thực hành tuệ uẩn trong Bát chánh đạo được thực hiện.

Ba chi phần ca định uẩn trong Bát chánh đạo đi cùng với hai chi phần của tuệ uẩn trong Bát chánh đạo và hai nhóm này có tên là Pañcaṅgikamagga (năm chi phần của Bát chánh đạo). Năm yếu tố này thành lâp một nhóm và cùng với ba chi phần của giới uẩn trong Bát chánh đạo đã nói trước”. - Maggaṅga Dīpanī, The Manual of the Constituents of the Noble Path, trang 62- 63, như được dịch, được hiệu đính và biện tập bởi the English Editorial Board of the Union of Myanmar Buddha Sāsana Council.
Tên của đại trưởng lão Ledī Sayādaw chắc chắn không xa lạ với Ven. Kheminda. Thực ra, Ledī Sayādaw là một ngôi sao sáng nổi bật trong thế giới Phật giáo hơn nửa thế kỷ qua, một ngọn đèn chiếu sáng không những ở Đông phương mà còn ở Tây phương. Ngài được tôn kính sâu sắc bởi bà Rhys Davids những người tiên phong khác của Pāḷi Text Society, London, vì kiến thức thâm thúy ca ngài về Tam tạng (Tipiṭaka). Ngài là tác giả của một số lượng lớn về những luận đề Phật giáo, đặc biệt là thiền quán (Vipassanā). Những tác phẩm của ngài rất được Tăng chúng và hàng cư sĩ trân trọng.

Ngài đã phát biểu dứt khoát rằng một sukkha-vipassaka (người quán khô) không nhất thiết phải tu tập samatha (chỉ) riêng biệt, khi vị ấy, đã thiết lập trong giới, có thể bắt đầu thiền quán (vipassanā).

Gi đây Ven. Kheminda lẽ ra có thể dọn sạch nghi ngờ rồi và có một quan điểm đúng.

Trong trường hợp vẫn không thể thấy từ góc độ đúng, vị ấy cần phải chú ý đoạn sau đây được trích từ Giải thoát đạo (Vimuttimagga) trang 310, trong đó Ven. Kheminda là một trong những đồng dịch giả.

“Thuần quán: là quán chế ng các triền cái do nh tuệ lực. Dùng trí phân biệt danh sau khi sắc đã được thể nhập bằng cách các thân hành. Bắt đầu với quán, hành giả tu tập chỉ”.
Tôi xin phân tích đoạn văn này. “Bắt đầu với quán, hành giả tu tập chỉ” chắc chắn có nghĩa rằng một suddhavipassanā-yānika puggala bắt đầu với quán ngay khi vị ấy bắt đầu quán sát. Ch
ắc chắn không có nghĩa rằng vị ấy nỗ lực để đạt được thiền (jhāna) bằng cách samatha với ý định chứng Tâm thanh tịnh và kế đó bắt đầu thiền quán duy nhất ở giai đoạn Kiến thanh tịnh.

Điều mà hành giả không tu tập samatha để chứng Tâm thanh tịnh càng rõ ràng hơn vì những từ “quán chế ngcác triền cái do nh tuệ lực”.

Những từ này giải thích làm thế nào Tâm thanh tịnh đơợc chứng đạt. Khi giải thích điểm này, chúng ta thấy rõ ràng rằng các triền cái bị chế ng “do nh tuệ lực” và không phải “do nh thiền định”.

Xét theo ý nghĩa này, thực rất rõ ràng rằng một suddhavipassanāyānika puggala không tu tập để chứng đạt Tâm thanh tịnh và trong khi tu tập quán vị ấy cũng chế ngự các triền cái và chứng đạt Tâm thanh tịnh.

“Quán chế ngự các triền cái do nh tuê lực”. Câu này hoàn toàn hòa hợp với phát biểu của Ledī Sayādaw “Ba chi phần của định uẩn trong Bát chánh đạo đi cùng với hai chi phần của tuệ uẩn trong Bát chánh đạo”.
Thực hoàn toàn rõ ràng rằng Ven. Kheminda đã chấp nhận quan điểm được đề cập ở trên về suddhavipassanā như đã đư
ợc diễn tả trong Vimuttimagga trong khi vị ấy đang dịch đoạn văn đặc biệt trong tác phẩm đó. Tại sao ? Bởi vì không có dấu hiệu bất đồng về khía cạnh này trong nhng ghi chú nhưng thay vì thế các dịch giả đã cho là thích hợp để sao chép những đoạn văn hoàn chỉnh của Paṭisambhidāmagga, cho thấy quán đi trước chỉ (samatha).
Tôi thực sự không thể hiểu tại sao Ven. Kheminda giờ đây lại kiên trì chống đối quan điểm đúng mà chính vị ấy đã hoan hỷ chấp nhận, một quan điểm mà hoàn toàn phù hợp với nguồn đáng tin cậy là kinh điển Pāḷi.
Trả Lời Số 5
Ven. Kheminda viết: “Sau khi tu tập giới không thể tu tập tuệ khi bỏ qua định. Nếu quán (vipassanā) được tu tập không có chỉ (samatha) thì những giai đoạn của Tâm thanh tịnh và Kiến thanh tịnh sẽ bị đảo ngược”.

Phần trả lời các số 2 và 3, thực ra, đã bao quát điểm này. Tuy nhiên, tôi sẽ giải thích tóm tắt lần nữa ở đây.

Trong Bāhiya and Uttiya Sutta, Ambapāli Vagga, Mahāvagga Saṃyutta, Đức Phât khích lệ như vầy: “Này chư tỳ kheo, dựa vào giới, được thiết lập trong giới, các vị có thể tu tập t niệm xứ”. (Xem ghi chú 1 and 2). Sự khích lệ này cho thấy rõ ràng rằng, nếu không phải là samathayānika, hành giả có thể thiền quán (vipassanā), khi vị ấy được thiết lập trong giới.

Tuy nhiên. như được giải thích trong trả lời số 2 (b) của tôi liên quan đến kinh Sāla và Chú giải của kinh đó, sát na, cận hành hoặc an chỉ định, tùy theo trường hợp, có thể được tu tập trong quá trình quán sát tứ niệm xứ và Tâm thanh tịnh được chứng đạt. Sau khi chứng Tâm thanh tịnh, thì Kiến thanh tịnh có thể được chứng đạt.
Làm thế nào có thể được nói rằng sự quán sát theo phương pháp này bỏ qua định? Đó là lý do tại sao Ledī Sayādaw chỉ ra như vầy: “Ba chi phần của Định uẩn trong Bát thánh đạo đi cùng với hai chi phần của Tuệ uẩn”. Vì sự thực rằng theo cách định phát sinh trong khi tu tập quán, các triền cái được chế ngự và Tâm thanh tịnh được chứng đạt, sau đó Kiến thanh tịnh được chứng đạt, người ta không thể nói rằng hai giai đoạn bị đảo ngược.
Trình tự tiến triển này được phát biểu trong The Progress of Insight, trang 4. “Trong khi thực hành bài thực tập chuyên niệm (noticing) như vậy với tâm không triền cái, tâm chuyên niệm đó sẽ chặt chẽ và khắn khít hơn ở bất cứ đối tượng nào được chuyên niệm và hành động chuyên niệm đó sẽ tiến hành không có gián đoạn.

Vào lúc đó sự tương tục không gián đoạn phát sinh trong vị ấy, “tâm định kéo dài trong một sát na”, hướng đến mỗi đối tượng được chuyên niệm.’ Đây được gọi là “Tâm thanh tịnh”.

Sự chứng đạt Kiến thanh tịnh được phát biểu như vầy trên trang 7 trong đó.

“Khi trí đó đã đi đến thuần thục, hành giả hiểu như vầy: ‘Vào lúc thở vào chỉ có sự chuyển động phồng lên của bụng và sự biết chuyển động đó, nhưng ngoài ra không có tự ngã’. Hiểu như vậy trong những trường hợp này và trường hợp khác, hành giả tự mình biết và thấy bằng cách chuyên niệm như vầy: “Chỉ có cặp đôi đó: một tiến trình sắc là đối tượng, và một tiến trình danh biết đối tượng và chính vì với riêng cặp đôi đó mà có những từ tục đế đề cập đến “chúng sanh”, “người” hoặc “linh hồn”, “tôi” hoặc “người khác”, “nam’hoặc “nữ”. Nhưng ngoài tiến trình kép đó ra không có người tách rời trong chúng sanh, tôi hoặc ai khác, nam hoặc nữ. Đây được gọi là Kiến thanh tịnh”.
Từ những đoạn văn này, Ven. Kheminda l ra có thể thấy rõ rằng những giai đoạn ca Tâm thanh tịnh và Kiến thanh tịnh không bị đo ngược.

Trả Lời Số 6

Ven. Kheminda viết: “Quán (Vipassanā) không thể được tu tập trước khi tu tập Tâm thanh tịnh và Giới thanh tịnh. Điểm này đã được bao gồm trong phần trả lời các số 2 và 3. Tuy nhiên, nơi đây xin giải thích tóm tắt. Ven. Mahāsī Sayādaw và cả tôi nữa chưa từng nói hoặc viết với ý nghĩa rằng samatha hoặc vipassanā có thể được tu tập không cần có Giới thanh tịnh. Sự thực là một samathayānika yogī (hành giả cỗ xe chỉ), đã thiết lập trong giới, chứng đạt Tâm thanh tịnh bằng cách samatha và kế đó tu tập quán.

Nhưng đối với một vipassanāyānika yogī (hành giả cỗ xe quán), vị ấy đã thiết lập trong giới, không tu tập samatha nhưng tu tập thẳng vào quán và do vậy chứng đạt Tâm thanh tịnh. Rằng sự thực hành này hoàn toàn phù hợp với Bāhiya, Uttiya and Bhikkhu sutta trong Mahāvagga Saṃyutta, tôi đã giải thích chi tiết trong phần trả lời các số 2 và 3 của tôi. Nếu Ven. Kheminda có thể hiểu chúng thì cái điểm được chứa trong số 6 sẽ được sáng tỏ.
----------

SÁT NA ĐỊNH

Bác Bỏ Phần Đáp Trả Phản Bác I-VIII

Tác Giả: Sayādaw U Ñāṇuttara Agga Mahā Paṇḍita (Miến Điện)

Trả Lời Số 7 (a)
Đề cập đến trích dẫn từ Chú giải Visuddhimagga được sao chép trên trang 4 của The Progress of Insight, Ven. Kheminda cáo buộc rằng “Chính là định này mà Venerable Mahāsī Sayādaw tuyên bố là Tâm thanh tịnh vipassanāyānika tu tập”. Nếu Ven. Kheminda đã quyết định nói “loại định này” thay vì nói “định này” thì người ta có thể nói rằng vị ấy hiểu Tâm thanh tịnh như được diễn tả trong The Progress of Insight. Tại sao? Bởi vì Ven. Mahāsī Sayādaw không trích dẫn đoạn văn đặc biệt đó từ Chú giải Visuddhimagga để nêu ra sát na nhất tâm đó, như được phát biểu trong chương liên quan với niệm hơi thở của Visuddhimagga có nghĩa là Tâm thanh tịnh, nhưng để cho thấy sát na định đó, được gọi là Tâm thanh tịnh, có loại sức mạnh đó được chứa trong sát na nhất tâm đã được nói đến.
Chắc chắn, tác giả của Paramatthamañjūsā đã giải thích sát na nhất tâm, chấp nhận lời giải thích ‘Samādhiyati’ của Ānāpānassati Sutta trong Chú giải Uparipaṇṇāsa. Đó chỉ là tự nhiên mà những nhà chú giải và Phụ chú giải của một thời kỳ sau chấp nhận những từ của những người đã đi trước họ, nếu họ nghĩ việc đó thích hợp. Rằng “Samādhiyati” cũng được đề cập trong kinh Kāyagatāsati Sutta tiếp theo, nhưng không có khác biệt về ý nghĩa giữa từ này và “Samādhiyati” của Ānāpānassati Sutta trước, không có giải thích được đưa ra lần nữa trong đó.
Lời giải thích từ “samādhiyati” đó như vầy: “Samādhiyati” nghĩa là “được khéo an trú, như thể chứng an chỉ định’. (Xem Chú thích 42). “Samādhiyati” của những phần về Oai nghi, bốn loại Tỉnh giác và quán sát về những cách thức của thân trong Kāyagatāsati nghĩa là chỉ có sát na định mà thôi. Bởi vì trong những phần đó, không thể chứng cận hành định thực sự và an chỉ định, theo đoạn văn của Chú giải Mahā Satipaṭṭhāna Sutta: “mười hai phần thực tập còn lại là những đề mục thiền duy nhất dẫn đến cận hành định mà thôi. (60)
Xét theo sự thực này, không có chỗ cho nghi ngờ rằng, khi cho thấy sức mạnh của sát na định của vipassanāyānika, Paramatthamañjūsā đã chấp nhận lời giải thích khi nói “như thể an chỉ định được chứng” từ Chú giải Uparipaṇṇāsa.

Trong trường hợp, như Ven. Kheminda đã cáo buộc, Mahāsī Sayādaw muốn nói rằng sát na nhất tâm đã nói đến là Tâm thanh tịnh, lẽ ra ngài đã trích dẫn trực tiếp đoạn văn từ Visuddhimagga, chương liên quan niêm hơi thở, có chứa cụm từ, “sát na nhất tâm”. Nơi đây, thay vì làm thế, ngài trích dẫn duy nhất đoạn văn từ Chú giải Visuddhimagga, đề cập đến sát na nhất tâm, mà để chứng tỏ rõ ràng rằng ngài không bao giờ có ý nói sát na nhất tâm đã nói đến là Tâm thanh tịnh, vì rằng ý ngài muốn nói như thế để cho thấy sát na định, được gọi là Tâm thanh tịnh, cũng có loại sức mạnh đó trong sát na nhất tâm đã nói đến.

Thực ra, tôi đã nghĩ rằng Ven. Kheminda đã hiểu mục đích của Ven. Mahāsī Sayādaw khi đưa ra trích dẫn đó. Bởi vì trong bài báo đầu tiên của vị ấy: Sát na định và Tâm thanh tịnh (World Buddhism, 1966, July, trang 7, cột giữa). Ven. Kheminda đã viết như vầy: “Về vấn đề này tác giả trích dẫn trong trang 4 một đoạn văn từ chú giải Visuddhimagga (Paramatthamañjūsā), sao chép ở 3 (b) ở trên, nó dường như nêu ra sức mạnh của sát na định”.

Bất kể những gì đã nói trong chính bài đầu tiên của mình, Ven. Kheminda rõ ràng đã dùng những từ “nó dường như” với mục đích xác định việc nhấn mạnh quan điểm của vị ấy. Rằng vị ấy không thể đặt bất cứ cấu trúc nào khác hơn là những gì nó chuyển nghĩa theo nguyên bản mà sẽ được làm rõ sau khi đọc lại cẩn thận những đoạn sau đây từ The Progress of Insight.

“Vào lúc đó phát sinh sự tương tục không gián đoạn ‘tâm định kéo dài trong một sát na’ hướng đến mỗi đối tượng được chuyên niệm (noticed). Đây được gọi là Tâm thanh tịnh”.

“Mặc dù định đó chỉ có trong khoảnh khắc sát na nhưng sức mạnh đề kháng của nó không bị áp đảo bởi pháp đối nghịch tương đương với sức mạnh của cận hành định”.
‘Trong Chú giải Visuddhimagga, trong phần giải thích chương liên quan niệm hơi thở, có lời nói như vầy: ‘Sát na nhất tâm’ nghĩa là tâm định chỉ kéo dài trong một sát na. Vì loại định đó, khi nó sinh khởi không gián đoạn với đối tượng tương ứng của nó theo một hành tướng và không bị chế ng bởi nghịch pháp, cũng làm cho tâm vững chắc không xao động, như thể ở trong an chỉ”.

"Sự sắp xếp theo trình t của những đoạn đã nói trên cho thấy rõ ràng (1) làm thế nào sát na định phát sinh ở sát na Tâm thanh tịnh (2) sát na định đó được gọi là Tâm thanh tịnh (3) sát na định đó có sức mạnh giống như sức mạnh của cận hành định và nhấn mạnh sức mạnh đối kháng đó của sát na định, một đoạn văn liên quan từ Chú giải Visuddhi magga đã được trích dẫn rõ ràng.
Cần phải lặp lại rằng khi nêu ra trích dẫn đó không phải có ý nói sát na nhất tâm trong chương liên quan niệm hơi thở là Tâm thanh tịnh. Sát na nhất tâm này như được bình luận ở trên trong Chú giải Visuddhi magga, được trích dẩn bởi vì đoạn văn liên quan cho thấy rõ ràng sức mạnh của loại sát na định đó phát sinh trong khi tu tập quán (vipassanā).

Mặc dù Ven. Mahāsī Sayādaw khéo ý thức rằng Niệm hơi thở là đề mục thiền chỉ (samatha kammaṭṭhāna), nhưng ngài ám chỉ đến đoạn văn chú giải bàn đến Niệm hơi thở, nói về Tâm thanh tịnh được chứng bởi một vipassanāyānika, không cho thấy rằng sát na nhất tâm là Tâm thanh tịnh nhưng cho thấy rõ ràng rằng sát na định, mà có sức mạnh giống như sức mạnh của sát na nhất tâm, được gọi là Tâm thanh tịnh.

Sau khi đã cáo buộc không công bằng rằng Ven. Mahāsī Sayādaw tuyên bố sát na nhất tâm là Tâm thanh tịnh, Ven. Kheminda tùy tiện đưa ra phán xét: “Bằng cách ấy vị ấy nói theo cách khác rằng Tâm thanh tịnh của vipassanāyānika phát sinh sau khi quán ở thanh tịnh thứ ba, trong khi đó Tâm thanh tịnh là thanh tịnh thứ hai”.

Không có dấu hiệu nhỏ nhoi nào trong The Progress of Insight rằng Tâm thanh tịnh phát sinh sau quán, hoặc Tâm thanh tịnh phát sinh ở thanh tịnh thứ ba. Nhưng Ven. Kheminda trích dẫn một câu từ Visuddhimagga “vào khoảnh khắc quán xác thực sát na nhất tâm phát sinh”. (chương liên quan Niệm hơi thở) phù hợp với cáo buộc được đề cập ở trên. Dựa vào câu này vị ấy không những đã cáo buộc bất công mà còn đưa ra một phán xét tùy tiện.

Thực ra, chính bản thânVen. Kheminda đã rút ra kết luận sai lầm rằng Tâm thanh tịnh phát sinh sau quán, hoặc Tâm thanh tịnh phát sinh ở thanh tịnh thứ ba. Chắc chắn đó không phải Tâm thanh tịnh được phát biểu trong The Progress of Insight, bởi vì không có nơi nào trong đó Ven. Mahāsī Sayādaw phát biểu rằng sát na nhất tâm được diễn tà trong chương liên quan Niệm hơi thở là Tâm thanh tịnh. Do đó, quan điểm cho rằng Tâm thanh tịnh và Kiến thanh tịnh bị đảo ngược, rằng “thanh tịnh thứ hai được đi trước bởi thanh tịnh thứ ba”, rằng “nhân gần được đi trước bởi quả của nó” là phát biểu của Ven. Kheminda, không phải là phát biểu trong The Progress of Insight.
Trả Lời Số 7 (B)
Lại nữa, về những đoạn văn đề cập đến  Tâm thanh tịnh trong The Progress of Insight, Ven. Kheminda đã tạo ra một cáo buộc khác rằng Tâm thanh tịnh được cho một định nghĩa mới. Cáo buộc này cũng được tạo ra bởi vì vị ấy không nắm được lời giải thích trong đó. Khi bám chặt quan điểm rằng chỉ riêng jhāna-samādhi (thiền định) là chánh định (sammāsamādhi), vị ấy chỉ hiểu cách Tâm thanh tịnh được chứng đạt bằng cách của jhāna (thiền) và không có gì đáng ngạc nhiên rằng vị ấy hiểu những lời giải thích trong The Progress of Insight cách Tâm thanh tịnh được chứng đạt bằng sát na định, hoặc cận hành định theo danh nghĩa, như được diễn tả trong Mahā Satipaṭṭhāna Sutta, những phần về các Oai nghi, bốn loại Tỉnh giác, và quán sát về những thể cách  của thân.

Dĩ nhiên, Ven. Kheminda chắc chắn sẽ hiểu phát biểu trực tiếp rằng Tâm thanh tịnh được chứng đạt theo phương cách jhāna. Đó là một vấn đề để ước đoán rằng vị ấy sẽ hiểu hay không dù cho nó được phát biểu trực tiếp rằng Tâm thanh tịnh được chứng đạt bằng cận hành định, vì vị ấy mãi mê với quan điểm rằng chỉ riêng jhāna-samādhi là chánh định (sammā-samādhi).

Mặc dù Ven. Kheminda gi quan điểm rằng Tâm thanh tịnh được chứng đạt bằng cách jhāna, nó có vẻ rằng, nếu từ “jhāna” không được dùng trực tiếp để diễn tả tiến trình tâm của một samathayānika ở giai đoạn Tâm thanh tịnh thì vị ấy sẽ không chấp nhận lời giải thích đó. Vị ấy có thể cáo buộc rằng đây chỉ là một định nghĩa mới được đặt ra cho Tâm thanh tịnh. Do đó, Ven. Kheminda có lẽ không đáng bị khiển trách khi vị ấy không hiểu lời giải thích một cách thực tiễn về tiến trình tâm của một vipassanāyānika ở giai đoạn Tâm thanh tịnh, không có đề cập đặc biệt đến samādhi mà theo đó nó được chứng đạt.

Tác giả có vẻ chịu trách nhiệm về hành động thiếu sót, vì vị ấy đã không đề cập đến tên của định (samādhi) đặc biệt này. Tuy nhiên, cần phải được nhận xét rằng mặc dù Ven. Mahāsī Sayādaw không đặt tên một định đặc biệt ở giai đoạn Tâm thanh tịnh, nhưng ngài đã giải thích rõ ràng ở trang 4 và 5 trong The Progress of Insight, theo các Chú giải và các Phụ chú giải, rằng Tâm thanh tịnh được nói đến là sát na định, nếu không thì gọi là cận hành định.

Tôi xin giải thích thêm một chút. Trong số những đề mục thiền dẫn đến cận hành định được giải thích trong Chú giải Mahā Satipaṭṭhāna Sutta, The Progress of Insight đề cập tóm tắt ba đề mục trong đó, tức là : những Oai nghi, bốn loại Tỉnh giác và quán sát về những cách thức của thân. Sự quán sát về một trong những đề mục này dẫn đến cận hành định và do vậy Tâm thanh tịnh được chứng đạt.

The Progress of Insight giải thích điểm này, vì thế, làm thế nào có thể được nói với bất cứ biện minh nào rằng một định nghĩa mới được đặt cho Tâm thanh tịnh mà được chứng đạt bằng cách cận hành định, đã được giải thích theo Chú giải Mahā Satipaṭṭhāna Sutta. Tuy nhiên, cần phải được thêm rằng mặc dù nó được gọi là cận hành định, nhưng những đề mục thiền này không phải là những đề mục dẫn đến an chỉ định, nó không phải là cận hành định mà phát sinh gần với thiền (jhāna).

Nó là cận hành định theo danh nghĩa, nhưng theo đúng nghĩa nó là sát na định. Tôi đã giải thích sự thực này trong phần trả lời số 3 (a) của tôi. Xin mời tham khảo cột thứ nhất và thứ hai, trang 183, trong World Buddhism, February, 1963.

Để nói rằng đặt cho Tâm thanh tịnh một định nghĩa mới rõ ràng là không công bằng, xét theo những lời giải thích ở trên mà hoàn toàn phù hợp với các kinh điển Pāḷi, các Chú giải, các Phụ chú giải, nhưng mặt khác người mà nói như thế bộc lộ rằng vị ấy thiếu sở học cũng như thiếu kinh nghiệm thực hành thiền.
---------
CHÚ THÍCH
(60) DC. (II, 363) Sesāni dvādasāpi upacārakammaṭṭhānāneva.
----------
SÁT NA ĐỊNH

Bác Bỏ Phần Đáp Trả Phản Bác I-IX

Tác Giả: Sayādaw U Ñāuttara Agga Mahā Paṇḍita (Miến Điện)

Trả Lời số 7 (C)

Cáo buộc của Ven. Kheminda rằng Tâm thanh tịnh đứng vào chỗ Kiến thanh tịnh có vẻ đã được vị ấy tạo ra mà không có đọc cẩn thận The Progress of Insight. Trong trả lời số 5 của tôi, tôi đã giải thích rằng Tâm thanh tịnh ở đúng nơi thứ hai của nó, Kiến thanh tịnh ở đúng nơi thứ ba của nó trong The Progress of Insight. Tôi cũng đã giải thích điểm này khá chi tiết trong trả lời số 3 (a) của tôi. Tuy nhiên, theo trình tự mà các độc giả có thể tự mình quyết định là cáo buộc của Ven. Kheminda được chứng minh là đúng hay không, tôi đề nghị sao chép tThe Progress of Insight một đoạn liên quan Tâm thanh tịnh và toàn phần đề cập đến Kiến thanh tịnh.

‘Trong khi thực hành bài tập chuyên niệm (noticing) như vậy với ‘tâm không có triền cái’, tâm chuyên niệm sẽ trở nên khắn khít và vững chắc hơn ở bất cứ đối tượng nào được chuyên niệm và hành động chuyên niệm sẽ tiến hành không có gián đoạn. Vào lúc đó trong tâm hành giả phát sinh sự tương tục không gián đoạn, ‘tâm định kéo dài trong một sát na’, hướng đến mỗi đối tượng chuyên niệm. Đây được goi là ‘Tâm thanh tịnh”.

“Có Tâm thanh tịnh và tiếp tục thực hành chuyên niệm’, giờ đây hành giả được biết theo phân tích sắc và danh như sau: phồng lên (tức là chuyển động căng lên của bụng) là một tiến trình; xẹp xuống (tức là chuyển động hạ xuống của bụng) là một tiến trình khác; ngồi là một tiến trình khác; xúc chạm là một tiến trình khác v.v…’Theo cách đó hành giả biết được làm thế nào để phân biệt mỗi tiến trình sắc mà vị ấy chuyên niệm. Hơn nữa: sự biết chuyển động phồng là một tiến trình; sự biết chuyển động xẹp là một tiến trình khác. ‘Theo cách đó hành giả biết được mỗi hành động chuyên niệm của tâm thuộc về danh. Thêm nữa: ‘chuyển động phồng là một tiến trình; sự biết về chuyển động này là một tiến trình khác. Chuyển động xẹp là một tiến trình; sự biết về nó là một tiến trình khác” v.v… Theo cách đó vị ấy biết được làm thế nào để phân biệt mỗi tiến trình sắc và danh.

Tất cả trí đó, thực sự, đến từ việc chuyên niệm đơn giản không phải từ suy luận; tức là: nó là cái trí kinh nghiệm trực tiếp phát sinh do hành động chuyên niệm mà có và không phải xuất phát từ cái trí do suy tư. Như vậy khi thấy một cảnh sắc với mt, hành giả biết cách để phân biêt từng yếu tố được bao gồm; ‘Mắt là một; cảnh sắc là một cái khác; sự thấy là một cái khác và s biết là một cái khác nữa’. Cách tương tự áp dụng trong truòng hợp của những căn môn khác.

“Vào lúc đó, vì trong mỗi hành động chuyên niệm, hành giả phân tích biết được những tiến trình danh chuyên niệm và những tiến trình danh suy tư, thẩm sát, biết chúng trong chính mình do nhờ trí trực tiếp, bằng kinh nghiệm của vị ấy, như vầy: ‘chúng có bản chất hướng về một đối tượng, bản chất nghiêng về một đối tượng, bản chất nhận thức một đối tượng’. Mặt khác, hành giả phân tích biết những tiến trình sắc diễn tiến trong toàn thân, ở đây chúng được gọi bằng những tên ‘những chuyển động phồng và xẹp của bụng’, ‘sự ngồi’ v.v… biết chúng như vầy: ‘những pháp này không có bản chất hướng về hoặc nghiêng về một đối tượng, hoặc không có bản chất nhận thức một đối tượng’. Sự biết như thế được gọi là ‘biết sắc (hoặc thân) bằng biểu hiện vô ký’. Vì có lời nói trong Mūla-Ṭīkā, “Phụ chú giải căn bản” cho bộ Abhidhamma Vibhaṅga; nói cách khác ‘vô ký’ (như trong đoạn trích dẫn) phải được hiểu là không có năng lực nhận thức một đối tượng.

“Trí như vậy theo cách này, phân tích trong mỗi hành động chuyên niệm vừa là tiến trình sắc được chuyên niệm vừa là tiến trình danh tham gia vào việc chuyên niệm, theo bản chất như thực của chúng, được gọi là ‘trí phân tích về sắc và danh’.

“Khi trí đó đã đến độ thuần thục, hành giả hiểu như vầy: ‘vào sát na thở vào, chỉ có chuyển động phồng của bụng và sự biết chuyển động đó, ngoài ra không có cái ngã; vào sát na thở ra, chỉ có chuyển động xẹp của bụng và sự biết chuyển động đó, ngoài ra không có cái ngã’.

Hiểu điều đó như vậy trong những trường hợp này và những trường hợp khác, vị ấy tự mình biết và thấy bằng sự chuyên niệm như vầy: ‘ở đây chỉ có cặp đôi đó, tiến trình sắc là đối tượng và một tiến trình danh biết đối tượng đó và chính là chỉ riêng cặp đôi đó mà có những dụng ngữ quy ước như ‘chúng sanh’, ‘người’ hoặc ‘linh hồn’, ‘tôi’ hoặc ‘người khác’, ‘nam’ hoặc ‘nữ’. Nhưng ngoài tiến trình kép đó ra không có người hoặc chúng sanh, tôi hoặc một người khác, nam hoặc nữ. Đây được gọi là ‘Kiến thanh tịnh”.

Nếu phân tích cẩn thận những đoạn trên, người ta sẽ thấy rõ rằng (1) Tâm thanh tịnh được chứng đầu tiên, (2) kế đó ở phần đầu bàn về Kiến thanh tịnh hành giả đã chứng Tâm thanh tịnh và tiếp tục quán sát, (3) có được trí phân tích về sắc và danh, (4) và cuối cùng khi trí đó đã đến độ thuần thục từ bỏ s tin vào ‘cái ngã’ và chứng Kiến thanh tịnh, một bước này tiếp theo một bước khác khi được kinh nghiệm trong quán sát thực tiễn. Như vậy, Tâm thanh tịnh và Kiến thanh tịnh ở đúng chỗ của chúng.

Trả Lời Số 7 (D)
Ven. Kheminda viết: “Ven. Ñāṇaponika Thera nói …. Trong The Heart Of Buddhist Meditation ….. nó đã được Venerable U Sobhana Mahāthera đưa vào thực hành vì được tìm thấy là rất hiệu quả … Đây là lý do thứ ba để nói rằng phương pháp này là mới”.
Dù cáo buộc của Ven. Kheminda đúng đắn hay không, tôi không thể làm gì tốt hơn là ghi lại đoạn văn sau đây từ The Heart of Buddhist Meditation. Họ tự nói. “Chính là ở Miến Điện, trong thế kỷ hai mươi này, một sự thay đổi sâu rộng được đem lại trong tình huống đó bởi các nhà sư mà, do tinh thần tìm kiếm của họ, đã phát thảo rõ ràng lần nữa những đặc điểm nổi bật của con đường Niệm. Qua nỗ lực bản thân tích cực hành thiền họ đã giúp những người khác loại bỏ nhiều trở ngại đối với chánh kiến và sự thực hành con đường duy nhất. Có nhiều người ở Miến Điện và cũng không lâu trong các quốc gia khác, mà theo họ với sự tinh tấn nhiệt thành”.
“Chính là vào đầu thế kỷ này mt nhà sư Myanmar, tên thường gọi là U Nārada … đã phát triển những nguyên lý và chi tiết về sự thực hành mà thành lập cơ sở cho những ai mà theo ngài với tư cách là những đệ tử trực tiếp hoặc gián tiếp.
“Để đặt một tên cho phương pháp đào tạo của Venerable U Nārada trong đó những nguyên lý của Satipaṭṭhāna (Niệm xứ) được áp dụng một cách rõ ràng và triệt để, chúng tôi đề nghị gọi nó ở đây là phương pháp Niệm xứ Miến Điện  không phải theo nghĩa rằng đó là một phát minh của Miến Điện  nhưng bởi vì chính là ở Miến Điện  mà sự thực hành con đương cổ xưa đó đã được làm sống lại một cách khéo léo và năng động như thế.

“Các đệ t của Venerable U Nārada truyền bá kiến thức về phương pháp của ngài ở Miến Điện  cũng như trong các xứ Phật giáo khác và nhờ pháp môn này nhiều người được lợi ích lớn lao khi họ tiến bộ trên đường Đạo.

Venerable U Nārada Mahāthera, được biết rộng khắpMiến Điện  là the Jetavan (or Mingun) Sayādaw, qua đời vào ngày 18 tháng Ba, 1955 ở tuổi 87. Nhiều người tin rằng ngài đã đạt đến giải thoát tối hậu (A la hán).

“Một nhân duyên đem lại lòng hoan hỷ sâu đậm chính là ở Miến Điện  ngày nay, sự thực hành Tứ niệm xứ và sự hướng dẫn trong đó đang thịnh hành và đến một mức độ đáng kể khi mang lại những kết quả, do vậy cung cấp một sự tương phản nổi bật so với những làn sóng duy vật đang dâng lên khắp thế giới. Satipaṭṭhāna ngày nay là một động lực vững chắc trong đời sống tôn giáo của Miến Điện. Có nhiều trung tâm đào tạo trong xứ sở này, nơi mà nhiều ngàn người đã trải qua những khoá thực hành Niệm xứ nghiêm cẩn. Những khóa thiền này được tham dự bởi chư sư và những cư sĩ. Đó chính là một dấu hiệu của trí tuệ thuần thuc đến nổi chính phủ Miến Điện, dưới sự lãnh đao của thủ tướng U Nu, không lâu sau khi quốc gia giành độc lập, đã khuyến khích và ủng hộ những trung tâm thiền này, khi đánh giá cao rằng những tâm trí đã được đào tạo sẽ là một vốn quý cho quốc gia trong bất k bước đi nào của đời sống.

 “Nổi bật trong số các thiền sư Niệm xứ ngày nay là Venerable Mahāsī Sayādaw (U Sobhana Mahā-thera), nhờ sự hướng dẫn cá nhân của ngài trong các khóa thiền, và nhờ những sách và những bài giảng của ngài, ngài đã đóng góp nhiều cho sự phát triển việc thực hành ở Miến Điện. Nhiều ngàn người đã được lợi ích bởi hướng dẫn sáng suốt và kinh nghiệm của ngài. Các nam, nữ, trẻ và già, nghèo và giàu, học thức, và giới bình dân đã hành trì với lòng hâm h và nhiệt thành lớn lao. Và những kết quả không thiếu.
“Chủ yếu là, nh những nỗ lực của Venerable Mahāsī Sayādaw và các đệ t của ngài mà sự thực hành phương pháp thiền này đã lan truyền đến Thái Lan và Tích Lan và đã chuẩn bị chu đáo để mở một trung tâm thiền ở Ấn Độ.

“Trong những trang sau đây, thông tin sẽ được biết về một khoá thực hành thiền nghiêm túc theo phương pháp Tứ niệm xứ. Khóa đó được tổ chức ở Thathana Yeiktha, Rangoon (Miến Điện) dưới sự hướng dẫn của Venerable Mahāsī Sayādaw (U Sobhana Mahāthera)”.

Tôi cũng xin ghi lại một đoạn tthe Way of Mindfullness của Bhikkhu Soma“Hầu hết mọi người sẽ được nhiều lợi ích lớn khi thỉnh thoảng tham gia vào việc đào tạo về niệm theo một cách chuyên sâu ở một nơi thích hợp, dưới sự chỉ giáo của một thiền sư kinh nghiệm, nếu có sẵn một người như thế, và làm cho chính họ thấm nhuần việc ghi nhớ, tính không lơ là, tỉnh giác và sự quán sát.

Ở Thái và nhất là ở Miến Điện  có những thiền viện (kamathan kyaungs) mà người xuất gia và tại  gia vào đó thường xuyên để tìm sự an tịnh, theo đường lối này, dưới sự hướng dẫn của thiền (kamathan sayā).

Những đoạn văn đề cập ở trên chứng thực sư việc một cách rõ ràng rằng thiền theo Mahā Satipaṭṭhāna Sutta đang thịnh hành ở Miến Điện  kể tnhững thời xa xưa, được thực hành khắp xứ sở bởi Tăng cũng như cư sĩ. Những phương pháp bất đồng ở những nơi khác nhau, dưới những vị thầy khác nhau là điều có thể hiểu được hoàn toàn.

Một số thích niệm hơi thở hơn và những người khác thực hành riêng quán sát Oai nghi, bốn loai Tỉnh giác và quán sát những thể cách của thân, thọ, và tâm theo cách nó thích hợp với họ. Đối với quán sát về những thể cách  của thân, một số tập trung sự chú ý của họ vào đỉnh đầu của họ hoặc một điểm tập trung ngay dưới ngực nơi mà nhiệt lượng (tejo) biểu hiện.

Một số quán sát về biểu hiện dao động (vāyo) ở điểm tập trung ngay dưới ngực. Ven. Mahāsī Sayādaw quán sát về sắc và danh bắt đầu với sự phồng và xẹp của bụng. Ngài dạy các đệ tử quán sát theo phương pháp này. Ở đây sự dao động, gọi là phồng và xẹp của bụng, là các gió trong bao tử (Kucchisayavāyo); một trong sáu loại không khí hoặc gió, được diễn tả trong phần tu tập về xác định Tứ đại. Phương pháp này được dạy bởi vì nó được tỉm thấy hiệu quả nhất trong việc quán sát Tứ đại theo sự quán sát về những thể cách của thân và sự tu tập về xác định Tứ đại.

Tâm đắc với điều này, Ven. Ñāṇaponika Thera viết: “nó đã được đưa vào thực hành bởi Venerable U Sobhana Mahāthera (Mahāsī Sayādaw) vì nó được tìm thấy là rất hiệu quả”. Không có lời cáo buộc nào được đưa ra rằng việc quán sát sự dao động  (vāyo) theo những phương pháp được đề cập ở trên được diễn tả trong Mahā Satipaṭṭhāna Sutta và Visuddhimagga là một phương pháp mới. Nếu có một sự cáo buộc như thế thì rõ ràng là lời cáo buộc không có căn cứ.

Ven. Kheminda phát biểu: “Có những Venerable Sayādaw và thera khác ở Miến Điện không thừa nhận lời dạy này”. Tôi đã giải thích ở trên rằng những phương pháp là bất đồng và những ai đang quán sát theo những phương pháp khác mà thích hợp với họ không có lý do để thay đổi chúng. Nhưng đã có một số đáng kể các Sayādaw học thức, sáu mươi đến bảy mươi tuổi, chưa nói đến hằng ngàn các thera, mà chọn phương pháp này như được dạy bởi Ven. Mahāsī Sayādaw. Những venerable Sayādaw công nhận lời day của Ven. Mahāsī Sayādaw có thể được thấy ở trung tâm thiền của ngài, gọi là Thathana Yeiktha.
Sự thực những phương pháp bất đồng ở Miến Điện  và các hành giả thực hành thiền theo phương pháp mà thích hợp với họ, nhưng có sự nhất trí về quan điểm trong số cả thảy họ, cả Tăng chúng lẫn cư sĩ, rằng một vipassanā-yānika có khả năng chứng đạt đạo-quả- Niết bàn không cần có tu tập riêng biệt định. Ở Tích lan, sự bất đồng ý kiến thường xảy ra ở chính quan điểm này.

Mặc dù Ven. Kheminda giữ chặt quan điểm rằng một vipassanā-yānika tu tập định trước khi vị ấy bắt đầu tu tập quán, Ông Mr. S. E. de Silva và những nhân vật ưu tú, trích dẫn trong bài báo của ông ấy, “Quán hoặc thiền quán -I (World Buddhism, January. 1968) chủ trương quan điểm rằng một vipassanāyānika không tu tập riêng biệt định. Ông Mr. S. E. de Silva viết: “Thiền quán được khởi đầu ở một trong hai cách, là theo thiền chỉ (Samādhi Bhāvanā) mà tu tập các thiền (Jhāna) hoặc là quán đi trước chỉ (Vipassanā Pubbabhāga Samatha), như được nêu ra trong các kinh văn, không có cố gắng tu tập các thiền (jhāna) bằng cách quán danh và sắc và tất cả các hành hữu vi khác từ góc nhìn về vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta, đó là tiến trình tu tập quán cùng với chỉ.
“Phương pháp sau này, được biết trong các kinh điển là Sukkha Vipassanā (quán khô), ở Tích Lan người ta thường gọi là phương pháp Miến Điện, bởi vì nó được du nhập vào Tích lan bởi Miến Điện gần đây, theo phong tục truyền thống về sự hồi sinh những thực hành Phật giáo giữa Miến Điện,, Thái Lan và Tích Lan, khi bất cứ thực hành nào như thế đi vào quên lãng ở một trong những xứ sở này. Các thế kỷ bị ngoại bang thống trị, vào thời gian này, đã làm cho lối sống Phật giáo thoái hóa tệ hại ở Tích Lan, trong khi đó ở  Miến Điện phương pháp quán khô này (Sukkha Vipassanā) đã từng được hành trì đều đặn, chứng tỏ là một số người mộ đạo đã đạt được Đạo Quả (Thánh) nhờ phương pháp này.

Theo yêu cầu riêng của U Nu, thủ tướng của Miến Điện  lúc đó, một phật tử rất nhiệt tình, và Ngài U Thwin đã quá cố, là chủ tịch Buddha Sāsanānuggaha Association, theo sách ghi lại, vào tháng Mười một 1940, Ven. Agga Mahā Paṇḍita Mahāsī Sayādaw mà người ta tin tưởng đã đạt được Đạo Quả (Thánh), từ Shwebo chuyển đến trung tâm Thathana Yeiktha, ở Rangoon và mở một trung tâm thiền, chính Mahāsī Sayādaw chấp nhận chức vụ thiền sư ở đấy.

“Chính là với nguồn gốc này mà sự hồi sinh phương pháp Vipassanā này của Tích Lan được trở về nguồn.

“Và Mahāsī Sayādaw bình luận phương pháp quán khô này (Sukkha Vipassanā) trong những lời sau đây: Thực đáng mong muốn để cố gắng đạt được định siêu thế (Lokuttarā Samādhi), mà không có gì khác hơn Định Đạo (Magga Samādhi) và Định Quả (Phala Samādhi) Thánh. Để có Định này, trau dồi tuệ (Paññā) là cần thiết. Để tu tập tuệ này điều cần thiết là tiếp tục thực hành riêng thiền quán (Vipassanā Bhāvanā). Khi ưu điểm của tuệ được phát triển đúng đắn thì những phẩm chất cần thiết của Giới và Định cũng đạt được”.
(Trích dẫn này chỉ rõ rằng sự tu tập Định (Samādhi Bhāvanā) có thể được bỏ qua, khi các thiền (jhāna) không được theo đuổi).

Ven. Nārada Mahā Thera, đang đảm nhiệm viện chủ Vajirārāma, Colombo đã công nhận phương pháp quán khô này (Sukkha Vipassanā) trong các tác phẩm của ngài, khi giới thiệu Mahāsī Sayādaw với độc giả Colombo, ngài đã đề cập đến Mahāsī Sayādaw như người chắc chắn là một Magga Phala Lābhi yogāvacara bhikkhu (tỳ kheo hành giả đạt được thánh Đạo Quả).
“Ven. Hendiyagala Seelaratna Mahā Thera, người Tích Lan, trưởng ban tổ chức của Ariya Samatha Society, trong nguyệt san của hội, quyển I, tháng 10, 1949, bình luận phương pháp này như sau: Niết bàn có thể chứng được, như A la hán Cakkhupāla là vị quán khô (Sukkha Vippassaka) đã chứng, không có bất cứ thiền nào (Jhāna)”.

“Giải thoát đạo (Vimuttimagga) trang 319 (đồng tác giả, Rev. N. R. H, Ehara - giảng viên Risho University, Japan; Soma Mahā Thera và Kheminda Thera của Vajirarāma, Colombo) diễn tả ngắn gọn phương pháp này: bắt đầu với quán, vị ấy tu tập chỉ”.

‘”Shwe Zan Aung trong Compendium of Philosophy (Pāḷi Text Society, 1910) nhận xét mạnh mẽ: Cần phải lưu ý rằng thiền (Jhāna) không tuyệt đối cần thiết cho thánh quả A la hán (Không nơi nào trong các kinh điển đòi hỏi rằng các thiền và các năng lực thần thông ban cho người có được chúng tiếp cận Niết bàn nhanh hơn hoặc dễ hơn hoặc đến gần trạng thái cao hơn ở đấy)”.

Ven. Mahāsī Sayādaw và các đệ tử của ngài không những quán sát phồng và xẹp của bụng mà còn quán sát những Oai nghi, bốn loại Tỉnh giác, quán sát về những thể cách  của Thân, Thọ, Tâm và Pháp, quán sát bất cứ cái gì xảy ra ở sáu căn môn theo Mahā Satipaṭṭhāna Sutta và  Visuddhimagga. Do đó, điều khá rõ ràng là phương pháp do Ven. Mahāsī Sayādaw dạy hoàn toàn phù hợp với những lời dạy của Đức Phật.

Trả Lời Số 8
Ven. Kheminda nêu ra r
ằng trong cách dịch 'vuttappakāraṃ samathaṃ anuppādetvā ,…. Cái từ ‘trước’ là sự đưa vào phi lý, bởi vì cụm từ đó có nghĩa ‘chỉ là không có tạo ra thiền chỉ (samatha) đã nói đến’, eva nghĩa là ‘chỉ là’. Điều này cho thấy rằng Ven. Kheminda không hiểu những từ đó có ý muốn nói gì.

Thc ra, trong cách dịch anuppādetvā, sự lồng vào từ ‘trước’ không những phù hợp với (a) ng pháp và (b) ngữ cảnh, mà còn hữu ích để tạo nên ý nghĩa rõ ràng hơn. (a) Về ngữ pháp nên được chú ý rằng hậu tố ‘eva’ được dùng để chỉ việc đi ngay trước động từ chính (pubbakāla), việc đi ngay sau động từ chính (aparakāla) và một động từ cùng thời gian với động từ chính, (samānakāla)tvā’ trong câu kasitvā vapati. (vị ấy gieo sau khi vị ấy đã cày), hậu tố chỉ pubbakāla. Trong câu dvāraṃ aritvā pavisati (vị ấy vào sau khi vị ấy đã đóng cửa), dvāraṃ āvaritvā nikkhamati (vị ấy đi ra sau khi vị ấy đã đóng cửa), hậu tố chỉ aparakāla. Trong cụm từ andhakāraṃ nihantvāna uditoyaṃ divakāro ( mặt trời mọc lên vẹt tan bóng tối), hậu tố chỉ samānakāla.
Trong cách dịch samathāni anuppādetvā, coi anuppādetvāaparakāla là không thích hợp. Bởi vì Chú giải Dhammadāyāda Sutta giải thích như vầy: “Khi nào đối với một vipassanāyānika yogī (hành giả cỗ xe quán), vipassanā (quán) trở thành hoàn toàn, định (samādhi) được chứng vào sát na thực chứng Đạo, có Niết bàn là đối tượng. (Định) này là samatha (chỉ)”, (61)

Lại nữa, coi anuppadetvā samanakāla cũng không thích hợp, bởi vì không thể tu tập vừa chỉ vừa quán ở đồng sát na tâm. Sự thực này rất rõ ràng không có chỗ nào nghi ngờ gì nữa.

Aparakāla and samanakāla là không thích hợp, chỉ còn nói rằng pubbakāla là thích hợp. Cách dịch ‘không có tu tập trước chỉ’ do đó hoàn toàn chính xác và không công bằng để nói rằng từ ‘trước’ là sự đưa vào phi lý. b) Đề cập đến ngữ cảnh này, cũng hoàn toàn chính xác. Đã có lời phát biểu ban đầu về samathayānika ‘Một người trước tiên tu tập cận hành định hoặc an chỉ định”. (62)

Đối nghịch với phát biểu này, về vipassanā-yānika, có phát ngôn xác đáng rằng ‘sau khi không có tu tập chỉ’. Khi đối nghịch với cụm từ ‘trước tiên tu tập’ trong câu trước thì cụm từ ‘không có tu tập chỉ’ nghĩa là ‘sau khi không có tu tập chỉ trước tiên.’ Để làm rõ hơn ‘trước tiên’ đã được thay thế bằng ‘trước đó’. Do đó, cách dịch hiện thời, là hoàn toàn chính xác đối với ngữ cảnh.

Ven. Kheminda viết ‘va’ (eva) được dùng ở đây để nhấn mạnh. Tôi đã chuyển dịch bằng ‘chỉ là’ ; Nhưng Mūlapaṇṇāsa Ṭīkā giải thích như vầy ‘Theo từ loại trừ (eva) trong samathaṃ anuppādetvā va, cận hành định được loại ra nhưng không phải sát na định, bởi vì vipassanā không thể có nếu không có sát na định”. (63)

----------------
(61) MC. (i, 113) Tassa vipassanāpāripūriyā tattha jātānaṃ dhammānaṃ vossaggārammaṇato uppajjati cittassa ekaggatā. Ayaṃ samatho.

(62) MC. (I, 112) Idhekacco paṭhamaṃ upacārasamādhiṃ vā appanāsamādhiṃ vā uppādeti.

(63) MSC. (I, 204) Samathaṃ anuppādetvāvāti avadhāraṇena upacārasamādhiṃ nivatteti, na khaṇikasamādhiṃ. Na hi khaṇikasamādhiṃ vinā vipassanā sambhavati.
---------
Người dịch ghi chú:

MC. = chú giải Majjhima Nikāya

MSC. = Phụ chú giải Majjhima Nikāya.
-----------

SÁT NA ĐỊNH

Bác Bỏ Phần Đáp Trả Phản Bác I-X

Tác Giả: Sayādaw U Ñāṇuttara Agga Mahā Paṇḍita (Miến Điện)

Trả Lời Số 9
 Ven.  Kheminda viết: “Sau khi tu tập giới không thể nào tu tập tuệ, khi bỏ qua định. Nếu quán (vipassanā) được tu tập không có chỉ (samatha) thì những giai đoạn Tâm thanh tịnh và Kiến thanh tịnh bị đảo ngược”.

Lẽ ra vị ấy đã không viết theo cách này nếu vị ấy chcó thể giải thích đúng những đoạn văn liên quan trong các kinh điển Pāḷi và các Chú giải. Tôi sẽ giải thích. Các bài giảng của Đức Phật thừa nhận hai loại giải thích (1) Những kinh mà phải được giải thích trực tiếp hoặc phải được giải thích đúng như vậy, được biết là nītattha desanā; (2) những kinh mà, nếu giải thích trực tiếp, có thể xung đột với nhau và do vậy, so sánh, cân nhắc cái này với cái kia để được sự giải thích đúng, được biết là neyyattha desanā. Đức Phật thuyết một kinh để nhấn mạnh điểm này trong Aṅguttara Nikāya, Duka Nipāta, Bāla Vagga (See Gradual Sayings, Part II, Chapter III (5): “Này chư tỳ kheo, hai hạng người này xuyên tạc Như Lai, hai hạng đó là gì? Người mà tuyên bố là một kinh đã giải thích là một kinh cần giải thích; và người mà tuyên bố là kinh cần giải thích là một kinh đã giải thích”. (64)

Các nhà Chú giải và Phụ chú giải dùng hai phương pháp này. Những kinh tôi ghi lại trong bài trước cũng như trong bài này là nītattha desanā. Đoạn kinh văn Mahā Satipaṭṭhāna Sutta cho thấy sammāsamādhi (chánh định) như là bốn thiền là neyyattha desanā. Ven. Kheminda, có lẽ, vì không biết hai phương pháp này, đã hấp tấp giải thích kinh văn Satipaṭṭhāna này một cách trực tiếp hoặc theo nguyên nghĩa, như thể đó là là nītattha desanā,
Sự quan  tâm của Ven. Kheminda cũng được mời gọi đến một kinh văn tương tự trong Sacca Vibhaṅga, Sammohavinodanī (trang 113, nơi mà chánh định (sammāsamādhi) được cho thấy là bốn thiền (jhāna). Tuy nhiên, cả hai kinh văn đã đề cập không nên được giải thích theo một cách trực tiếp hoặc như là nītattha desanā. Nếu chúng được giải thích như thế thì upacāra samādhi (cận hành định) cũng có thể được coi là không phải sammāsamādhi (chánh định). Nếu được nhìn nhận như thế, sẽ là mâu thuẫn với các kinh điển mà cho thấy rằng cận hành định đưa thẳng đến thánh đạo quả (Ariya magga phala). Nó cũng sẽ bất đồng với những Chú giải như Visuddhimagga mà phát biểu dứt khoát rằng Tâm thanh tịnh được chứng đạt bằng cách upacāra samādhi (cận hành định). Do đó, kinh văn Satipaṭṭhāna Sutta cho thấy sammāsamādhi (chánh định) nên được xem là neyyattha desanā, như trong trường hợp ‘ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo’. Tôi sẽ giải thích. Nếu aṭṭhaṅgiko được giải thích theo nghĩa đen, chỉ có bát chi đạo kết hợp với thiền thứ nhất sẽ là đạo đế (magga saccā); thì bảy chi đạo kết hợp với thiền thứ hai v.v… sẽ không là đạo đế. Thực ra thì không phải như thế. Đạo kết hợp với thiền thứ hai và các thiền khác cũng là magga saccā (đạo đế). Điểm này được giải thích rõ ràng bởi đoạn văn sau đây từ Papañcasūdanī, Chú giải Majjhima Nikāya, Mūla Paṇṇāsa. “Trung đạo này, đôi khi là bát chi thánh đạo, đôi khi là thất chi thánh đạo. Tôi sẽ giải thích.

Trung đạo này, khi được kết hợp với sơ thiền siêu thế (lokuttarā), là bát chi đạo. Khi Trung đạo được kết hợp với các thiền còn lại, là thất chi thánh đạo. Tuy nhiên, trong Dhammadāyāda sutta theo phát biểu tối đa, có ý nói bát chi đạo”.(65)

Như được phát biểu ở trên, mặc dù cho thấy tối đa là bát chi đạo, thất chi đạo cũng được xem là thánh đạo. Cũng vậy, trong đoạn văn cho thấy appanā (an chỉ), là tu tập bậc cao, upacāra samādhi (cận hành định), là tu tập bậc thấp, nên được xem là sammāsamādhi (chánh định) bằng cách bao gồm nó trong jhāna (thiền) có năm chi phần.

Bởi vì upacāra samādhi (cận hành định) nên được xem là sammāsamādhi (chánh định) như đã nói trước, vipassanā khaṇika samādhi (sát na định quán) mà có cùng trạng thái như upacāra samādhi (cận hành định), do khả năng chế ng các triền cái của nó, nên được coi là sammāsamādhi (chánh định). Điều nên được nhìn nhận như thế cũng được cho thấy như vậy trong chú giải Saṃyutta Nikāya“Trục thin’ nghĩa là ‘trục tạo nên thiền có năm chi thiền, được kết hợp với quán”. (66)

Nếu chú giải này, xét theo những từ ‘năm chi thiền, kết hợp với quán’, những gì mà vipassanā samādhi là thiền (jhāna) có năm chi thiền là rõ ràng. Bởi vì chính là thiền mà có năm chi thiền, vipassanā samādhi (định quán) được bao gồm trong sammāsamādhi (chánh định). Lại nữa, trong chương Cittuppāda Dhammasaṅgaṇī (trang 17), ekaggatā (nhất tâm), kết hợp với kāmāvacara-kusala-citta (tâm thiện dục giới) được cho thấy là sammāsamādhi (chánh định). (67)
Hơn nữa trong Visuddhimagga, quán trí về sinh và diệt được cho thấy là đạo hợp thế. “Và cái thấy của vị ấy về sinh và diệt trở nên rõ ràng với vị ấy là Đạo đế như vầy ‘Đây là đạo hợp thế’ do loại bỏ lầm lạc về nó”. (trang 737, Path of Purification by Bhikkhu Nāṇamoli) (68)

Khi cho thấy như vậy, y như quán trí về sinh và diệt được coi là sammādiṭṭhi (chánh kiến), samādhi (định) kết hợp với trí đó nên được coi là sammāsamādhi (chánh định). Do đó, Ven. Kheminda nên hiểu rằng vipassanā samādhi (quán định) cũng là sammāsamādhi (chánh định).

Tôi sẽ giải thích thêm: Trong Sīla sutta, Pabbata Vagga, Mahāvagga Saṃyutta Đức Phật thuyết: “Này chư tỳ kheo, bất cứ tỳ kheo nào có giới, có định, có tuệ, có giải thoát, có giải thoát do tri kiến. Ta tuyên bố rằng chính việc thấy những tỳ kheo như thế mang lại nhiều lợi ích”. Để nêu ra samādhisambojjhaṅga (định giác chi), Đức Phật thêm ‘Giờ đây, này chư tỳ kheo, khi một tỳ kheo được hỷ thì có thân và tâm khinh an, lúc đó chính là khinh an giác chi được thiết lập trong vị ấy. Khi vị ấy tu tập khinh an giác chi, vào lúc như thế, do tu tập của vị ấy khinh an giác chi đi đến toàn hảo trong vị ấy. Người có thân khinh an thì an lạc. Trong người an lạc thì tâm được định”. (The Book of the Kindred Sayings, V, pages 55-56). (69)
Trong Chú giải Kinh này, có lời phát biểu như vầy: “Nơi đây, vipassanā mà đi trước arahatta magga (A la hán đạo), bao gồm những tướng khác nhau, xảy ra đồng thời ở một sát na tâm là những giác chi (bojjhaṅga)”. (70)

Trong Chú giải Sammohavinodanī, đề cập đến Bojjhaṅga Vibhaṅga, có lời phát biểu như vầy: ‘tâm được định tĩnh’ nghĩa là tâm được khéo giữ, khắn khít vào một đối tượng, như thể nó đã đạt đến an chỉ. ‘Nó được nói’ nghĩa là nó được nói rằng tâm định tĩnh này, kết hợp với vipassanā đưa đến các giác chi, là định giác chi.’ ….

Điều này nghĩa là gì? Điều này nghĩa là vipassanā mà đi trước Arahatta magga (A la hán đạo), mà bao gồm những chức năng và những tướng khác nhau, xảy ra đồng thời ở một sát na tâm, là những giác chi. (71)

Tất cả những Kinh và Chú giải cho thấy rõ ràng rằng pubbabhāga samādhisamādhi-sambojjhaṅga (định giác chi). Nếu nó là samādhi-sambojjhaṅga, chắc chắn đó là sammāsamādhi-maggaṅga (chánh định đạo chi).

Khi xem xét tất cả những điểm đã được giải thích ở trên, điều hết sức rõ ràng là kinh văn Mahā Satipaṭṭhāna Sutta, cho thấy bốn jhāna-samādhi (thiền định) là sammāsamādhi không phải là nītattha desanā, nhưng là neyyattha desanā. Do đó, quan điểm của Khemindā chủ trương rất ngoan cố rằng chỉ riêng bốn jhāna-samādhi sammāsamādhi rõ ràng không chính xác.

 Như kinh văn Mahā Satipaṭṭhāna đã nói đến, có một vài đoạn văn mà không nên được xem là nītattha desanā. Daṭṭhabba Sutta, Suddhika Vagga, Indriya Saṃyutta chứa một câu: “Định căn cần phải được xét từ quan điểm nào? Từ quan điểm bốn thiền”. (72) Nếu câu này được xem là nīttattha thì những câu sau đây chứa trong Kinh tương tự phải được xem như thế, ‘Này chư tỳ kheo, tín căn cần phải xét thấy từ quan điểm nào? Từ quan điểm bốn chi phần dự lưu. Tấn căn cần phải xét thấy từ quan điểm nào? Từ quan điểm tứ chánh cần. Niệm căn cần phải xét thấy từ quan điểm nào? Từ quan điểm tứ niệm xứ … Tuệ căn cần phải xét thấy từ quan điểm nào? Từ quan điểm tứ thánh đế (Kindred Sayīngs V, pages 171-172) (73)

Nếu chúng được xem là nītattha desanā thì bốn thiền không có gì để làm với sotāpattiyaṅga, satipaṭṭhāna và sacca, người ta ắt phải quan niệm rằng bốn thiền không bao gồm tín căn, niệm căn và tuệ căn. Thực ra, không hẳn như thế. Tại sao? Bởi vì năm căn được bao gồm trong tất cả tâm thiện Kāma (dục giới), Mahaggata (đại hành) và Lokuttarā (siêu thế). Điều mà chúng bao gồm năm căn được giải thích như vầy trong Chú giải kinh thứ nhất của Suddhika Vagga: “Tín căn, niệm căn và tuệ căn được bao gồm trong các tâm kusala (thiện) và vipāka (quả) của bốn bhūmi và tâm kriya (duy tác). Tấn căn và định căn được bao gồm trong tâm kusala (thiện) của bốn bhūmi, các tâm akusala (bất thiện), vipāka (quả) và kriya (duy tác)”. (74)

Trong Dhammasaṅgaṇī, chúng ta thấy rằng trong phần đề cập đến các tâm thiện, có lời phát biểu như vầy: Khi một tâm thiện … đã sinh … lúc đó có tíncăn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. ((Xem trang 3, Buddhist Manual of Psychological Ethics by Mrs. Rhys Davids).(75) Do đó, quả thực rõ ràng là bốn thiền bao gồm tín căn, niệm căn, và tuệ căn. Tuy nhiên, trong Daṭṭhabba Sutta, đặc biệt đề cập đến mỗi căn trong năm căn để nhấn mạnh sức mạnh của nó trong phạm vi riêng của căn này, Đó là lý do tại sao, trong Chú giải kinh này, có lời giải thích như vầy: “Kinh này được giảng để nhấn mạnh các căn trong phạm vi riêng của chúng”. (76)

Do đó, cần phải nói rằng Kinh này không phải là nītattha desanā nhưng là neyyattha desanā. Cũng vậy, kinh văn Mahā Satipaṭṭhāna Sutta cho thấy bốn thiền là sammā-samādhi (chánh dịnh) không phải là nītattha desanā nhưng là neyyattha desanā.Tại sao vậy? Bởi vì như tôi đã giải thích ở trên, không những bốn jhāna-samādhi mà còn vipassanā momentary samādhi (sát na định quán) và cận hành định được xem là sammāsamādhi (chánh định). Do đó, sự khẳng định của Ven. Kheminda là không có thực chất khi cho rằng trí thấy các pháp như thực không thể có nếu không có sammāsamādhi (chánh định) mà phát sinh từ bốn thiền.

---------
CHÚ THÍCH

(64) A. (I, 61) Dve’me bhikkhave tathāgataṃ abbhācikkhanti. Katame dve? Yo ca neyyatthaṃ suttantaṃ ‘nītattho suttanto’ti dīpeti, yo ca nītatthaṃ suttantaṃ ‘neyyattho suttanto’ti dīpeti.

(65) MC. (I, 112) ayañhi majjhimā paṭipadā kadāci ariyo aṭṭhaṅgiko maggo hoti, kadāci sattaṅgiko. Ayañhi lokuttarapaṭhamajjhānavasena uppajjamāno aṭṭhaṅgiko maggo hoti, avasesajjhānavasena sattaṅgiko. Ukkaṭṭhaniddesato pan’idha aṭṭhaṅgikoti vutto.

(66) SC (III, 158) Jhānakkho-ti vipassanāsampayuttānaṃ pañcannaṃ jhānaṅgānaṃ vasena jhānamaya-akkho.

(67) Dhs. (17) sammāsamādhi hoti.
(68) Vism. (II, 268) Yañc’assa udayabbayadassanaṃ, maggovāyaṃ lokikoti maggasaccaṃ pākaṭaṃ hoti tatra sammohavighātato.

(69) S, (III, 62) Yasmiṃ samaye bhikkhave bhikkhu tathā vūpakaṭṭho viharanto taṃ dhammaṃ anussarati anuvitakketi.... Yasmiṃ samaye bhikkhave, bhikkhuno passaddhakāyassa sukhino cittaṃ samādhiyati, samādhisambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno āraddho hoti. Samādhisambojjhaṅgaṃ tasmiṃ samaye bhikkhu bhāveti, samādhisambojjhaṅgo tasmiṃ samaye bhikkhuno bhāvanāpāripūriṃ gacchati.

(70) SC. (III, 182) Imasmiṃ sutte apubbaṃ acarimaṃ ekacittakkhaṇikā nānālakkhaṇā arahattamaggassa pubbabhāgavipassanā bojjhaṅgā kathitā.

(71) VbhC. (299). Samādhiyatīti sammā ādhiyati, niccalaṃ hutvā ārammaṇe ṭhapīyati, appanāppattaṃ viya hoti. Ayaṃ vuccatīti ayaṃ bojjhaṅgasamuṭṭhāpikā vipassanāsampayuttā cittekaggatā samādhisambojjhaṅgo nāma vuccati… Ettāvatā kiṃ kathitaṃ nāma hoti? Apubbaṃ acarimaṃ ekacittakkhaṇe nānārasalakkhaṇā pubbabhāgavipassanā bojjhaṅgā kathitā honti.

(72) S. (III, 172) Kattha ca bhikkhave samādhindriyaṃ daṭṭhabbaṃ? Catūsu jhānesu ettha samādhindriyaṃ daṭṭhabbaṃ.

(73) Ibid. (172) Kattha ca bhikkhave saddhindriyaṃ daṭṭhabbaṃ? Catūsu sotāpattiyaṅgesu ettha saddhindriyaṃ daṭṭhabbaṃ. Kattha ca bhikkhave, vīriyindriyaṃ daṭṭhabbaṃ? Catūsu sammappadhānesu ettha vīriyindriyaṃ daṭṭhabbaṃ. Kattha ca bhikkhave satindriyaṃ daṭṭhabbaṃ? Catūsu satipaṭṭhānesu ettha satindriyaṃ daṭṭhabbaṃ… Kattha ca bhikkhave paññindriyaṃ daṭṭhabbaṃ? Catūsu ariyasaccesu ettha paññindriyaṃ daṭṭhabbaṃ.
(74) SC (III, 264) Indriyasaṃyuttassa paṭhame saddhindriyaṃ satindriyaṃ paññindriyanti imāni tīṇi catubhūmakakusalavipākesu c’eva kiriyāsu ca labbhanti. Vīriyindriyasamādhindriyāni catubhūmakakusale akusale vipāke kiriyāyāti sabbattha labbhanti.
(75) Dhs. (17) Yasmiṃ samaye kāmavacaraṃ kusalaṃ cittaṃ uppannaṃ hoti .... tasmiṃ samaye ... saddhindriyaṃ hoti, vīriyindriyaṃ hoti satindriyaṃ hoti, samādhindriyaṃ hoti, paññindriyaṃ hoti.
(76) SC (III, 264)
Kattha ca bhikkhave saddhindriyaṃ daṭṭhabbaṃ, catūsu sotāpattiyaṅgesūti-ādi imesaṃ indriyānaṃ savisaye jeṭṭhakabhāvadassanatthaṃ vuttaṃ.
---------
Người dịch ghi chú:

A.= Aṅguttara Nikāya
MC. = chú giải Majjhima Nikāya
S. = Saṃyutta Nikāya
SC. = chú giải Saṃyutta Nikāya
Dhs. = Dhammasaṅgaṇī
Vism. = Visuddhimagga
VbhC. = chú giải Vibhaṅga
-----------

SÁT NA ĐỊNH

Bác Bỏ Phần Đáp Trả Phản Bác I-XI

Tác Giả: Sayādaw U Ñāuttara Agga Mahā Paṇḍita (Miến Điện)


Trả Lời Số 10
Ven Kheminda viết với ý chính là định tu tập sau quán được gọi là vipassanā saṃyutta samādhi hoặc nibbedhabhāgiya samādhi, định đó không được gọi là cittavisuddhi (tâm thanh tịnh). Cả Ven. Mahāsī Sayādaw và tôi không hề phát biểu rằng samādhi được nói đó, đề cập trong Paṭisambhidāmagga là cittavisuddhi (tâm thanh tịnh) và tuy vậy Ven. Kheminda viết theo giọng điệu ở trên như thể chúng tôi đã phát biểu với ý chính đó có lẽ vì vị ấy không nắm được những gì tôi đã viết trong bài báo, xuất bản vào tháng 11, 1966, số báo in trong World Buddhism. (trang 101).

Trong bài đó tôi đã giải thích vipassanā pubbaṅgama samatha bhāvanā theo đúng với Chú giải Aṅguttara và Phụ chú giải, Paṭisambhidāmagga và Chú giải Paṭisambhidāmagga. Lúc đó, tôi đã có một phát biểu xác định rằng định được tu tập sau quán là Ariya-magga samādhi. Dựa vào Chú giải Papañca-sūdanī và Phụ chú giải, tôi đã viết:

“Chú giải cũng như Phụ chú giải đề cập ở trên giải thích rõ ràng rằng định được tu tập sau quán là Ariya-magga samādhi”. Từ phát biểu nêu trên, Ven. Kheminda sẽ nhận thức điều tôi đã phát biểu rằng định được tu tập sau quán là citta-visuddhi (tâm thanh tịnh).

Lần nữa, để chỉ ra rằng nibbedhabhāgiya samādhi được đề cậpupacāra-appanā samādhi trong PaṭisambhidāmaggaAriya-magga samādhi, mặc dù định này dường như là Lokiyajhāna samādhi. Tôi đã viết rằng “Có vẻ như định này là lokiya-jhāna-samādhi và cận hành định mà báo trước nó.

Nếu là thế, nó sẽ không hòa hợp với ý nghĩa được chuyển tải bởi Chú giải Papañcasūdanī và Phụ chú giải.

Đăc biệt, nó sẽ khó nhất trí với những từ ‘các pháp mà phát sinh vào sát na đó’. Vì thế định trong đoạn này sẽ là Ariya-magga-samādhi mà được tu tập sau quán.

Giải thích của tôi sẽ thuyết phục ngay cả một độc giả tình cờ điều mà tôi không bao giờ phát biểu rằng nibbedhabhāgiya samādhi đã đề cập ở trên là citta visuddhi (Tâm thanh tịnh). Vì thế Ven. Kheminda nên nhận thức rằng Tâm thanh tịnh được chứng bởi sát na định không chuyển tải bất cứ gợi ý nào về nibbedhabhāgiya samādhi.

(Trong phần Bác bỏ Đáp trả Phản bác I của tôi, tôi đã phát biểu: ‘Trong những bài báo này, Ven. Kheminda chủ yếu đưa ra những cáo buộc và những khẳng định sau đây: ‘1 đến 14’. Điểm số 11 đã được đưa vào do có sơ suất. Vì thế giờ đây tôi sẽ bàn đến điểm số 12).

Trả Lời Số 12
Ven. Kheminda phát biểu: “Chú giải Dhammadāyāda Sutta chỉ diễn tả phạm vi
tu tập đó trong sự thực hành của hành giả bắt đầu với quán … Nó không bao trùm toàn thể phạm vi tu tập của vị ấy. Ngay cả nó không chạm đến hai giai đoạn đầu tiên trong sự tu tập của hành giả”. Phát biểu này không chính xác.

Trong Chú giải đã nói đó sự tu tập của samathayānika được diễn tả như vầy “Ở đây một người trước tiên tu tập upacāra samādhi hoặc appanā samādhi. Đây là samatha . Vị ấy quán sát samādhi đó và tất cả những pháp kết hợp với nó để thấy là vô thường v.v… Đây là quán”. (77)

Nếu những từ Chú giải này được giải thích theo nghĩa đen, nó sẽ có vẻ như muốn nói rằng, sau Tâm thanh tịnh, bỏ qua trí phân tích về danh sắc và Kiến thanh tịnh, cũng như trí phân biệt duyên và đoạn nghi thanh tịnh, vipassanā được diễn tả bắt đầu với trí do hiểu biết và tri kiến thanh tịnh về đạo và phi đạo. Tại  sao?

Bởi vì sự quán sát danh sắc để thấy vô thường v.v… chỉ có thể có ở giai đoạn trí do hiểu biết và Tri kiến thanh tịnh về đạo và phi đạo. Thực ra, không nên được giải thích rằng Kiến thanh tịnh và Đoạn nghi thanh tịnh bị bỏ qua. Vì Tri  kiến thanh tịnh về đạo và phi đạo được diễn tả, nó nên được giải thích rằng những yếu tố nhân quả của nó là Kiến  thanh tịnh và Đoạn nghi thanh tịnh hầu như cũng được diễn tả.

Cũng vậy, về phát biểu theo Chú giải: “Một vipassanāyānika quán sát năm thủ uẩn để thấy vô thường v.v.. không có tu tập chỉ”, ta nên  giải thích rằng bởi vì câu đó diễn tả vipassanāTâm thanh tịnh, một yếu tố thiết yếu trong đó, hầu như cũng được  diễn tả. Trong phát biểu đã nói đó, mặc dù có lời phát biểu đơn giản rằng quán sát năm uẩn để thấy vô thường v.v.. giống như có thể được biết rằng yếu tố nhân quả của nó, trí phân tích về danh sắc đã được chứng đạt, cũng thế có thể được biết rằng trong khi quán sát về danh và sắc, sát na định quán, nếu không thì gọi là cận hành định, mà có thể chế ngự các triền cái, đã được tu tập trước khi chứng đạt trí phân tích về danh sắc. Do đó, khẳng định của Ven. Kheminda rằng phát biểu Chú giải, đề cập ở trên, diễn tả tuệ quán đó bắt đầu với Kiến thanh tịnh rõ ràng là không chính xác. Nếu quán để thấy vô thường v.v… được giải thích như trường hợp hiện tại, nó sẽ có nghĩa rằng sự diễn tả bắt đầu với trí do hiểu biết (tam tướng) và Tri kiến thanh tịnh về đạo và phi đao, không phải với Kiến thanh tịnh, như được Ven. Kheminda khẳng định.Thực ra, những ai mà thông thạo các kinh điển Phật giáo biết cách giải thích đó, như tôi đã phát biểu ở trên, rằng Tâm thanh tịnh, Kiến thanh tịnh và Đoạn nghi thanh tịnh hầu như cũng được diễn tả.
Lại nữa, khi trích dẫn Rathavinīta Sutta, Ven. Kheminda nắm giữ quan điểm rằng khi Tâm thanh tịnh được chứng, thì Giới thanh tinh không còn nữa, khi Kiến thanh tịnh được chứng thì Tâm thanh tịnh không còn nữa và cáo buộc rằng sự lẫn lộn mà cố gắng đưa từ ngữ Thanh tịnh vào tất cả hình thức của định mà phát sinh trong quá trình tu tập quán sát là do không xác định phạm vi tu tập của tuệ quán.

Về vấn đề này tôi xin hỏi Ven. Kheminda, nếu, như vị ấy hiểu như thế, những Thanh tịnh đi trước không còn nữa khi Thanh tịnh tiếp theo được chứng, vậy việc Giới thanh tịnh có mất đi hay không khi Tâm thanh tịnh được chứng. Trả lời của tôi là: “Chắc chắn không. Hơn nữa Giới được làm cho thanh tịnh với sự chứng Tâm thanh tịnh”.

Thực ra, phát biểu trong Rathavinīta Sutta rằng Giới thanh tịnh vì mục đích đưa đến Tâm thanh tịnh có nghĩa là nỗ lực để chứng Giới thanh tịnh ngừng lại với sự chứng Tâm thanh tịnh. Theo phát biểu này, không phải có nghĩa rằng Giới thanh tịnh mất đi ở giai đoạn tâm thanh tịnh. Cũng vậy, khi có lời phát biểu rằng Tâm thanh tịnh vì mục đích đưa đến Kiến thanh tịnh, có nghĩa rằng không có nỗ lực cần được làm để chứng Tâm thanh tịnh khi chứng Kiến thanh tịnh. Không có ý nói rằng Tâm thanh tịnh mất đi. Do đó, Tâm thanh tịnh vẫn giữ tính nguyên vẹn khi chứng Kiến thanh tịnh và những Thanh tịnh kế tiếp.

Đó là lý do tại sao Paṭisambhidā Magga, Virāga Kathā cho thấy rõ ràng rằng Tâm thanh tịnh được duy trì ở sát na Ariya Magga bằng phát biểu như vầy: “Nhờ những thu thúc của nó, Giới thanh tịnh là Virāga (Thánh đạo). “Nhờ sự vắng mặt của những tán loạn của nó, Tâm thanh tịnh là Virāga. “Nhờ năng lực tuệ quán của nó, Kiến thanh tịnh là Virāga. (78)

Trong Chú giải Paṭisambhidā Magga, có lời phát biểu như vầy: “Giới thanh tịnh nghĩa là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, và Chánh mạng. Tâm thanh tịnh nghĩa là Chánh định. Kiến thanh tịnh nghịa là Chánh kiến và Chánh tư duy”. (79)
Xét theo những đoạn được đề cập ở trên trong Paṭisambhidā Magga và chú giải của nó, bảy Thanh tịnh vẫn nguyên vẹn từ sát na của những chứng đạt tương ứng của chúng trong suốt sự tu tập tuệ quán.

---------
CHÚ THÍCH
(77) MC. (I, 112) Ihd'ekacco pathamaṃ upacārasamādhimvā appanāsamādhim vā uppādeti, ayaṃ samatho. So tañ-ca tamsampayutte ca dhamme aniccādīhi vipassati, ayaṃ vipassanā.
(78) Ps. (327) Samvaratthena sīlavisuddhi virāgo. Avikkhepatthena cittavisuddhi virāgo: Dassanatthena diṭṭhivisuddhi virāgo.
(79) PsC. (II, 213) Sīlavisuddhī-ti sammāvācākammantājīvā. Cittavisuddhī-ti sammāsa-mādhi. Diṭṭhivisuddhī-ti sammā samādhi.
Diṭṭhivisuddhī-ti  sammādiṭṭhi-saṅkappā.
----------
Người dịch ghi chú:

MC. = chú giải Majjhima Nikāya

Ps. = Paṭisambhidāmagga

PsC. = chú giải Paṭisambhidāmagga
-----------

 

SÁT NA ĐỊNH

Bác Bỏ Phần Đáp Trả Phản Bác I-XII

Tác Giả: Sayādaw U Ñāuttara Agga Mahā Paṇḍita (Miến Điện)

Trả Lời Số 13
Ven. Kheminda phát biểu rằng đoạn văn bắt đầu với samādahaṃ cittaṃ trong Visuddhimagga duy nhất liên quan với samathayānika, không phải với suddhavipassanāyānika. Tôi chấp nhận quan điểm của vị ấy. Mahāsī Sayādaw không bao giờ phát biểu rằng đoạn văn này đề cập đến vipassanāyānika.

Tuy nhiên, “sát na nhất tâm ở khoảnh khắc quán xác thực” bao hàm trong đoạn đó cũng liên quan với sát na nhất tâm của vipassanāyānika, bởi vì sát na nhất tâm được chứng đạt bởi một samathayānika trong quá trình thiền quán về cơ bản là tương tự như sát na nhất tâm được chứng đạt bởi một vipassanāyānika trong quá trình thiền quán (vipassanā).

Chắc chắn là thế, bởi vì cả hai sát na nhất tâm được chứng đạt bởi một samathayānika trong quá trinh thiền quán và sát na nhất tâm được chứng đạt bởi một vipassanāyānika trong quá trình thiền quán là kāmāvacara bhāvanā samādhi. Ở đây, cả hai samādhi đã được nói đó, đang được chứng đạt trong quá trình thiền quán không phải là cận hành định thực sự: chúng chỉ là sát na định. Nếu Ven. Kheminda có thể đánh giá đúng điểm này, vị ấy sẽ có thể đánh giá rằng y như samatha được chứng đạt bởi một samathayānika trong quá trình thiền quán được gọi là sát na định thì samādhi được chứng đạt bởi một vipassanāyānika trong quá trình thiền quán được gọi là sát na định.

Kāmāvacara bhāvanā samādhi như thế được gọi là sát na định đã được giải thích chi tiết vào tháng 12, 1967 , số báo của World Buddhism, trang 119, bằng cách trích dẫn những đoạn văn liên quan trong Sāla Sutta, Chú giải Sāla Sutta và Phụ chú giải. Tuy nhiên, để thuận tiện cho Ven. Kheminda, một đoạn văn từ Chú giải Sāla Sutta có thể được phát biểu lần nữa ở đây: “Nhất tâm’ nghĩa là đang được nhất tâm bởi sát na định. ‘vắng lặng, có tâm định’ nghĩa là đang được vắng lặng, có tâm định, bởi cận hành định và an chỉ định”.

Về từ khaṇika samādhi, khaṇika, không giống như cận hành và an chỉ định, không phải chỉ khoảng thời gian dài: nó chỉ kéo dài trong một sát na quán sát. Vì thế từ ng khaṇika đã nói đó không có phẩm chất đặc biệt. Tuy nhiên từ này được dùng không những cho samādhi được chứng đạt trong quá trình thiền quán mà từ này còn được các nhà Chú giải dùng cho phalasamāpatti của Đức Phật, trên cơ s của thời kỳ sát na của nó được cho thấy như vậy trong các Chú giải Dīgha và Saṃyutta Nikāya “Phải chăng Đức Phật đã không vào phala-samāpatti từ đó về sau? Phật có vào ch, nhưng phala-samāpatti đó là sát na quả định. Sát na Samāpatti từ bỏ thọ trong khoảnh khắc của nó”. (80)

Lại nữa, Ven. Kheminda phát biểu rằng sát na định có thể dành cho người xuất thiền jhāna mà thôi và quán sát quán (vipassanā). Theo phát biểu đó, Ven. Kheminda có vẻ như nói rằng tâm có thể được vững chắc duy nhất bằng sát na định đó. Có lẽ, vị ấy không thể đánh giá cao tinh thần của các Chú giải và các Phụ chú giải khi cho thấy năng lực của sát na định quán (vipassanā).

Thực ra, các Chú giải và các Phụ chú giải đã nói đó cho thấy rõ năng lực của sát na định được chứng đạt bởi cả hai samathayānika lẫn vipassanāyānika trong quá trình thiền quán. Paramatthamāñjūsā phát biểu như vầy: “Khi nó (sát na định) sinh khởi không gián đoạn với đối tượng tương ứng của nó theo một hành tướng và không bị khắc phục bởi nghịch pháp, nó khắn khít tâm, không xao động, như thể ở trong an chỉ”. (81)

Trong Phụ chú giải những từ như: “Khi nó sinh khởi không gián đoạn với đối tượng tương ứng theo một hành tướng” và những từ: ‘”không bị khắc phục bởi nghịch pháp, nó khắn khít tâm, không xao động, như thể ở trong an chỉ”.

khắn khít tâm, không xao động, như thể ở trong an chỉ  nên được chú ý đặc biệt. Những từ này không có ý cho thấy rằng, bởi vì người tu tập quán sau khi xuất thiền, sát na định của người đó có năng lực mà làm vững chắc tâm, như thể ở trong an chỉ. Thực ra, những từ đó cho thấy rõ rằng bởi vì sát na định sinh khởi không gián đoạn với đối tượng tương ứng theo một hành tướng và không bị khắc phục bởi nghịch pháp, nó có năng lực giống như năng lực của an chỉ định.

Khi nào trong các kinh điển Phật giáo một pháp nào đó được giải thích rõ ràng, bất cứ pháp nào khác có cùng nhữngớng có thể được giải thích theo cách tương tự. Loại giải thích này được gọi là lakkhaṇahāra, nó được cho thấy trong Netti. “Khi một pháp được giải thích tất cả các pháp có cùng nhữngớng phải được coi như là được giải thích theo cách tương tự. Hāra này được gọi là lakkhaṇahāra”. (82)

Ven. Mahāsī Sayādaw gii thích năng lực của sát na định trong The Progress of Insight theo lakkhaṇahāra này. Tôi sẽ giải thích. Sát na định được chứng đạt trong quá trình thiền quán theo Ānāpānasatikathā được cho thấy trực tiếp trong các Chú giải và các Phụ chú giải.

Trong The Progress of Insight năng lực của sát na định được chứng đạt trong quá trình thiền quán về sắc và danh theo Dhātumanasikārapabba v.v…được giải thích và trong sự giải thích này định đó được cho thấy trực tiếp trong các Chú giải và các Phụ chú giải cũng được cho thấy vì cả hai là thiền quán.
Giải thích này được thực hiện theo phương pháp lakkhaṇahāra và phù hợp với tinh thần của các Chú giải và các Phụ chú giải liên quan. Nếu phương pháp này không được sử dụng hoặc, nói cách khác, nếu chỉ duy nhất bám chặt lấy những phát biểu trực tiếp thì ngay cả trong Ānāpānasatikathā, các quán sát khác hơn quán sát mà được chỉ dạy bởi đoạn văn bắt đầu với samādahaṃ cittaṃ sẽ không dẫn đến s tu tập của một samādhi mà nhờ đó tâm được vững chắc.

Thực ra thì không phải thế, Vipassanā samādhi được chứng đạt bằng tất cả 16 phương pháp được chỉ dạy trong Ānāpānasatikathā có thể làm vững chắc tâm. Tương tự như vậy, vipassanā samādhi được chứng đạt bởi những phương pháp khác được chỉ dạy trong các giáo huấn của Đức Phật cũng có thể làm vững chắc tâm. Do đó, các hành giả mà quán sát theo những phương pháp này có thể đạt được tiến bộ tuần tự tuệ quán và chứng maggaphalañāṇa.

Trả Lời Số 14
Ven. Kheminda đưa ra cáo buộc không công bằng và bằng một lời lẽ mạnh bạo, như vầy: “Tâm thanh tịnh là nhân gần của quán và không có nhân gần này, những quả của nó, tức là Kiến thanh tịnh nơi mà quán bắt đầu, thậm chí có thể hiện hữu không? Nó là một quán giả tưởng mà lời dạy mới này nói về. Những gì nó làm cho hành giả mà chấp nhận phương pháp của nó là dừng lại sự tiến bộ ở cuối Giới thanh tịnh”. Ven. Kheminda đã đưa ra cáo buộc không có cơ sở, nói đúng hơn, một sự buộc tội bởi vì trong The Progress of Insight (trang 4) Ven. Mahāsī Sayādaw đã giải thích rất rõ ràng Tâm thanh tịnh được chứng đạt như thế nào.

Trong luận đề này, Ven. Mahāsī Sayādaw đã giải thích Tâm thanh tịnh, Kiến thanh tịnh v.v… không phải chỉ phù hợp với kiến thức được tiếp thu từ các kinh sách. Thực ra, sự tiến triển của quán được thành đạt bởi hàng ngàn hành giả mà quán sát phù hợp với phương pháp này được giải thích có tham khảo cẩn thận với các kinh sách, trọng tâm được đặt vào thực hành và những kết quả. Vì thế sự cáo buộc rằng nó là một quán giả tưởng chắc chắn là không công bằng và không tử tế.

Ven. Kheminda phát biểu rằng sự tiến triển của các hành giả mà chấp nhận phương pháp này sẽ dừng ở cuối Giới thanh tịnh. Phát biểu này chẳng khác gì ngăn cản những ai tin vị ấy không nên theo thiền quán. Vì phát biểu lầm lạc của vị ấy. Thực ra, các hành giả mà quán sát thuận theo phương pháp như được giải thích trong The Progress of Insight đang quán sát thuận theo lời dạy của Đức Phật: “Dựa vào giới, thiết lập trong giới, các vị có thể tu tập tứ niệm xứ” và do duyên tinh tấn và các Ba la mật, họ chắc chắn sẽ thực chứng magga-phalañāṇa, được kinh nghiệm trực tiếp bởi bản thân mỗi bậc trí. Những chứng đạt của các hành giả này đã được hợp nhất một cách phù hợp trong The Progress of Insigh.

Ở đây, tôi muốn trích dẫn trường hợp của Upāli, một đệ tử thân tín của Nigaṇṭha Nāṭaputta. Upāli đến gặp Đức Phật để biện luận về một số điểm ông muốn tranh luận. Sau khi nghe Phật giảng, Upāli thực chứng Tứ Thánh Đế và trở thành một sotāpanna.

Nigaṇṭha Nāṭaputta   đến để biết về sự cải đạo của Upāli. Vị ấy không tin, tuy nhiên đã phái người đệ tử tin cẩn là Dīghatapassī đi dò hỏi ở nhà của Upāli. Dīghatapassī trở về báo cho Nigaṇṭha Nāṭaputta   biết tin đó là thực. Vẫn không tin, đích thân vị ấy đi đến nhà của Upāli. Nigaṇṭha Nāṭaputta  được Upāli tiếp nhưng không được cung kính như trước đây. Ông nổi giận và dùng lời lẽ mạnh bạo công kích Upāli.

Ông nói: “Này gia chủ, có phải ông mất trí rồi không, ông thực ngu xuẩn… Ông bị cám dỗ bởi ‘thuật lôi cuốn’ của sa môn Gotama”. (83)

Upāli đáp lại …”Thưa Ngài, tốt lành thay là ‘thuật lôi cuốn’ này. Nếu thân bằng quyến thuộc của tôi có thể bị cám dỗ bởi sự lôi cuốn này vì nó đem lại lợi ích và an lạc lâu dài cho họ. Nếu tất cả hàng vua chúa… , Bà la môn… Thương gia…Lao công…Nếu thế giới với các chư thiên, Ma vương, Phạm thiên, sa môn, loài người có thể bị cám dỗ bởi sự lôi cuốn này, vì nó đem lại lợi ích và an lạc lâu dài cho họ”. (see Middle Length Sayings II, pages 48 & 49) (84)

Trong cách Upāli nói với Nāṭaputta, các hành giả mà đã trải qua thành công quá trình quán sát trọn vẹn theo phương pháp như được giải thích trong The Progress of Insight, chắc chắn sẽ bảo Ven. Kheminda rằng phương pháp đã nói đó là đúng và đem lại lợi ích và an lạc cho những ai nhiệt tâm quán sát thuận theo nó.

Ven. Mahāsī Sayādaw đã mạnh dạn phát biểu ở cuối The Progress of Insight như sau “Ban đầu điều mà luận đề này đề cập là viết cho những ai đã được những kết quả đặc biệt trong sự thực hành, những người khác cũng có thể đọc nó vì lợi ích.

“Bây giờ đây là những mong ước tốt lành cuối cùng của tôi dành cho loại độc giả sau: Giống như một bữa ăn bổ dưỡng, rất ngon, đậm đà hương vị có thể được đánh giá trọn vẹn chỉ bởi chính người đã ăn nó và không phải không có tham gia bữa ăn, cũng vậy, toàn thể loạt phát triển kiến thức được diễn tả ở đây có thể được hiểu hoàn toàn chỉ bởi người mà tự thấy nó bằng kinh nghiệm trực tiếp và không khác hơn được.

Vì thế mong những thiện nhân đạt đến giai đoạn hiểu biết rõ ràng về toàn thể loạt phát triển kiến thức này! Cũng mong họ cố gắng để chứng đạt nó!”.

Tôi có lời khuyên tốt lành là mong Ven. Kheminda sẽ suy ngẫm những lời cao quý này.

-----------
CHÚ THÍCH
(80) DC (II, 137), SC (III, 236)
Kiṃ pana bhagavā ito pubbe phalasamāpattiṃ na samāpajjatīti? Samāpajjati, sā pana khaṇikasamāpatti, khaṇikasamāpatti ca antosamāpattiyaṃyeva vedanaṃ vikkhambheti,
(81) Vism C (I, 342) Sopi hi ārammaṇe nirantaraṃ ekākārena pavattamāno paṭipakkhena anabhibhūto appito viya cittaṃ niccalaṃ ṭhapeti.
(82) Netti (3) Vuttamhi ekadhamme, ye dhammā ekalakkhaṇā keci; vuttā bhavanti sabbe, so hāro lakkhaṇo nāma.
(83) M. (II, 46) Ummatto’si tvaṃ gahapati, datto’si tvaṃ, gahapati… Āvaṭṭo’si kho tvaṃ gahapati samaṇena gotamena āvaṭṭaniyā māyāyā’ti.
(84) M. (II, 46) Bhaddikā bhante āvaṭṭanī māyā, kalyāṇī bhante āvaṭṭanī māyā. Piyā me bhante ñātisālohitā imāya āvaṭṭaniyā āvaṭṭeyyuṃ, piyānampi me assa ñātisālohitānaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya. Sabbe cepi bhante khattiyā … brāhmaṇā…vessā…suddā imāya āvaṭṭaniyā āvaṭṭeyyuṃ, sabbesānampissa suddānaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya. Sadevako cepi, bhante loko samārako sabrahmako sassamaṇabrāhmaṇī pajā sadevamanussā imāya āvaṭṭaniyā āvaṭṭeyyuṃ sadevakassapi’ssa lokassa… sadevamanussāya dīgharattaṃ hitāya sukhāyāti.
---------
Ngư
ời dịch ghi chú:

DC. (II, 137) = chú giải Dīgha Nikāya

SC. = chú giải Saṃyutta Nikāya

Vism C.= chú giải Visuddhimagga

Netti.= Nettipakaraṇa

M. = Majjhima Nikāya.

 

Bài viết năm 2023 khác