Thiền Quán - Chỉ Trích Và Phản Bác 04 Tỳ kheo Giác Lộc

28/11/2021 - 23:26   304

THIỀN QUÁN TỨ NIỆM XỨ (4)

Chỉ Trích Và Phản Bác

Tỳ kheo Giác Lộc

Dịch từ bản tiếng Anh

Satipaṭṭhāna Vipassanā

Criticisms And Replies

(Theo bản in 1979, Rangoon, Burma)


PHẦN HAI

PHỒNG VÀ XẸP CỦA BỤNG

ĐỐI TƯỢNG QUÁN ĐÚNG ĐẮN

NEWSWEEK

1343 N. State Pkw Chicago, IU., 560610, U.S.A.

Dec. 27, 1976.
From: CHRISTOPHER FARNY

Kính Gửi: Ven. Mahāsī Sayādaw,
 

Thưa Ngài,

Tôi đang gửi kèm một bản sao về sách của Lama Govinda “Thiền sáng tạo và tâm thức đa chiều” được xuất bản bởi nhà xuất bản thông thiên học, Wheaton III, U.S.A và London, Eng-land (1976).
Mặc dù kỹ thuật Niệm xứ đã được trích dẫn là một kỹ thuật mà tôi đã dùng trong thực hành thiền tông Tào Động trong nhiều năm – nó được gọi là shikan taza (ngồi trong tĩnh lặng) và mặc dù tôi đã thực hành các thiền Satipaṭṭhāna và các kỹ thuật niệm, cũng như thêm hương vị Krishnamurti trong vài năm, vì lợi ích của sadhana (tu hành) của tôi và cũng có thể của những người khác, tôi hy vọng Ngài có thể quan tâm bình luận những lời chỉ trích của Govinda về sự thực hành này. Vô tình, Govinda không nêu tên của quyển sách đang bàn đến, nhưng tôi biết nó là “một Thực nghiệm trong niệm” của đô đốc E. H. Shattock được xuất bản bởi Dutton, 300 Park Ave. South, New York 10, N.Y.

Trân trọng trong Dhamma,

C. FARNY
------------
Thiền Sáng Tạo Và Tâm Thức Đa Chiều

Tác giả – Lama Govinda

Chương 5
NHỮNG NỀN TẢNG CỦA NIỆM

Ý thức trọn vẹn trong tất cả tình huống và những điều kiện của đời sống là những gì Đức Phật muốn nói khi Phật dạy rằng chúng ta nên niệm trong khi ngồi, đứng, nằm hoặc đi. Nhưng “ý thức trọn vẹn” không có nghĩa là ý thức một khía cạnh duy nhất hoặc chức năng của thân, tâm chúng ta, nhưng ý thức với và thuộc về toàn thể con người chúng ta, mà bao gồm thân và tâm và điều gì mà vượt xa thân và tâm: tức là thực tại sâu hơn mà Đức Phật gợi ý nó trong từ Dhamma và Phật thực chứng nó trong trạng thái Giác ngộ.
Cách hiệu quả nhất để trở nên ý thức về toàn thể con người của chúng ta và trú trong một trạng thái định và xả toàn hảo, như chúng ta đã thấy, là sự thực hành ānāpānasati. Đây là căn bản của tất cả thiền, bởi vì chính là qua hơi thở mà chúng ta có thể tiếp xúc và liên kết tất cả các căn vật lý và tâm lý của chúng ta với tâm ý thức của chúng ta. Qua hơi thở chúng ta đạt đến sự tổng hợp tất cả các chức năng của chúng ta và nhận thức bản chất năng động và phổ quát của đời sống và sự bất lực của ý tưởng về một cái ngã tính tách rời và không thể thay đổi, như được giải thích trong giáo lý vô ngã của Đức Phật. Chỉ trên cơ sở này những bước tiếp theo của thiền Tứ niệm xứ có thể có bất cứ ý nghĩa nào và ngăn ngừa sự suy giảm giá trị của nó trong sự phân tích thuần trí thức và sự tiêu cực của tất cả những khía cạnh tích cực trong đời sống con người.
Nó là tiêu biểu và có ý nghĩa đối với thái độ tiêu cực và thiên kiến của những ai mà truyền bá sự thực hành Tứ niệm xứ Miến Điện hiện đại, rằng họ trấn áp chính xác chi phần của Tứ niệm xứ nguyên thủy mà Đức Phật đã thiết lập sự nhấn mạnh cao cả nhất trên đó. Họ thay thế nó bằng sự nông cạn nhất trong tất cả phương pháp, tức là quan sát sự phồng và xẹp của bụng - như vậy chuyển hướng sự chú ý của hành giả khỏi kinh nghiệm thực sự của tiến trình hơi thở. Nếu người ta cần những phương pháp tập trung sự chú ý liều lĩnh như thế, thì tốt hơn nên từ bỏ sự thực hành đó và dồn sự nhất tâm vào điều gì gây cảm hứng hơn. Điều gì mà giữ sự quan tâm của chúng ta tự nhiên và tự động không có dùng năng lực tuyệt đối của ý chí, mà chỉ củng cố ý thức bản ngã của chúng ta.
Để tập trung vào bộ máy có thể thấy của chuyển động, những chức năng của các chi thể và bắp thịt, tức là chỉ có khía cạnh vật chất của thân thể, là đang tập trung tâm của mình vào hình thức thấp nhất của ảo tưởng và phân tích thuần trí thức. Nó không mang lại cho chúng ta một bước gần chân lý hơn, nhưng lừa dối chúng ta trong việc tin tưởng rằng chúng ta đã cách ly những sự kiện nào đó, mà trên thực tế chúng ta chỉ bó buộc sự giải thích vật chất của chúng ta vào chúng.
Sự lừa dối nằm ở chỗ bỏ qua sự thực rằng chúng ta không thể tách rời bất cứ xúc xứ nào, vì mỗi xúc xứ đã là một tiến trình hết sức phức tạp. Chúng ta chỉ có thể làm suy giảm nó đến điểm nhấn mạnh khía cạnh nông cạn nhất của nó trong việc khắc phục tất cả yếu tố khác. Thực là buồn cười khi gọi việc này là một hành động quan sát hoặc ý thức không thiên kiến, bởi vì sự loại trừ cố ý của yếu tố tinh thần, tức là cái lực mà di chuyển hoặc khiến cho chuyển động, ý chí - và quan trọng ngang nhau, cái tâm mà quan sát những hành động và những phản ứng của riêng nó - và cuối cùng những điều kiện mà khiến cho sự chuyển động có thể xảy ra: Những lực phổ quát mà thành lập bối cảnh và điều kiện không thể thiếu cho tất cả sắc pháp và sự chuyển động, của tâm thức và năng lực ý chí, của sống và chết, quán tính và thông lượng.
Sự xuyên tạc Tứ niệm xứ của Đức Phật có thể được thấy trong tính chất giả tạo của những cụm từ như “chạm, chạm, chạm”- “dở, dở, dở” v.v…, theo đó mỗi chuyển động bị động từ hóa như thể dở, chạm, đặt xuống là điều gì mà tự nó xảy ra. Đức Phật đã giải thoát những phương cách lừa đối như thế về thái độ võ đoán hẹp hòi. Phật không ngại dùng từ “tôi” hoặc ngôi thứ nhất số ít của động từ diễn tả hành động cá nhân. Chẳng hạn, Phật nói đơn giản và tự nhiên “Khi đang thở vào dài, tôi biết rằng tôi đang thở vào dài, khi đang thở vào ngắn, tôi biết rằng tôi đang thở vào ngắn; và tương tự, tùy theo từng trường hợp: tôi đi, tôi đứng, tôi ngồi, tôi nằm”.
Sự thực là tất cả những chuyển động liên hệ với một lực trung tâm với một tâm thức cá nhân không có nghĩa rằng lực này là một cái ngã riêng tuyệt đối và không thể thay đổi. Hoàn toàn trái lại: người mà đã nhận thức tầm quan trọng nền tảng của tiến trình hơi thở- mà là một tiến trình đang nhận lấy và đang cho lại liên tục, đồng hóa và biến đổi, chấp nhận và từ bỏ- biết rằng bản chất của đời sống cá nhân không thể là một cái ngã ù lì, bất động hoặc một thực thể tách rời – cách ly khỏi cái thân mà nó trú, cũng như tách khỏi thế giới mà nó sống trong đó, nhưng là một lực năng động, một tâm điểm của những liên hệ vô hạn. Nỗ lực để tách rời nhiều chức năng khác nhau và xem chúng như thể chúng là tự trị, không liên hệ với bất cứ cái gì khác, là một sự xúc phạm thô thiển chân lý và thực tại.
Nếu có sự chuyển động có thể thấy thì thực tai của nó không nằm trong đối tượng mà được chuyển động, nhưng trong cái lực mà chuyển động nó. Nếu một tảng đá rơi, không số lượng phân tích khảo sát nào như với bản chất của tảng đá có thể giải thích lý do đối với sự rơi của nó. Chỉ khi nào chúng ta nhận thức cái lực và nguyên lý của luật hấp dẫn khi đó chúng ta mới bắt đầu hiểu tầm quan trọng phổ quát của hiện tượng đơn giản đó được quan sát trong sự rơi của một tảng đá.
Bằng sự khắc phục một nửa sự thực, tức là tiến trình tâm của hành động ý muốn chủ quan của chúng ta, mà một cách kỳ diệu (và có thể có sự thần kỳ lớn lao làm sao), hơn hành động trực tiếp của tâm trên sắc) gây ra sự chuyển động những chi thể của chúng ta - bằng sự khắc phục sự thực này, tôi nói, chúng ta xúc phạm chân lý và hạ thấp thực tại xuống thành một hiện tượng máy móc và hoàn toàn vô nghĩa.
Rõ ràng là, Đô đốc Shattock đi đến kết luận tương tự khi ông hỏi Mahāsī Sayādaw câu hỏi: “Sự liên kết giữa tâm mà suy nghĩ và ra những mệnh lệnh và bộ não vật lý mà thực hiện những lệnh đó trong thân là gì và nó hoạt động như thế nào?”
Ở đây vị ấy chạm vào một trong những bí mật thâm sâu nhất của đời sống – Sự tương quan của danh sắc (mano-maya), mà dẫn đến sự hiểu biết rằng thân không những là dụng cụ, một công cụ của tâm, khác với hoặc thậm chí xa lạ với bản chất thiết yếu của tâm, mà nó còn là một sự kết tinh của tâm thức chúng ta, được xây dựng lên bằng những sợi thần kinh tiến hóa hữu cơ hòa hợp với những luật phổ quát mà tự bộc lộ trong mỗi chức năng của thân và các cơ quan của nó. Thay vì thừa cơ hội này để nêu ra vài gợi ý về bản chất thực của tâm và năng lực tạo tác của nó (mano pubbaṅgamā dhammā), Sayādaw đã đưa ra câu trả lời gây kinh ngạc sau đây:
“Sayādaw không thể cho bạn một ý kiến về một vấn đề mà đã không được bao gồm bởi Đức Phật như vấn đề để hướng dẫn: Ngài sẽ không thể có một ý kiến về một điều như thế”. Đức Phật không bao giờ cấm các đệ tử tự suy nghĩ cũng không thiết lập một giáo điều mà loại trừ những câu hỏi như thế.=
-----------
From: Thathana Yeiktha,
16.Hermitage Road, Rangoon, Burma

January 21, 1977.
To: Mr. C. Farny

  1. N.State Pkwy, Chicago, Ill, 60610 U.S.A. Mr. Farny thân mến,


Tôi được Venerable Mahāsī Sayādaw chỉ dạy để báo cho ông biết đã nhận thư của ông, đề ngày 27, 12, 1976, khẩn vào ngày 11- đính kèm bản sao Chương 5, quyển “Những nền tảng của Niệm” của Lama Govinda, tựa là “ Thiền sáng tạo và tâm thức đa chiều”.
Chúng tôi rất biết ơn ông đã khiến cho tôi lưu ý đến những lời chỉ trích của Lama Govinda về phương pháp Satipaṭṭhāna Vipassanā như đã được Mahāsī Sayādaw dạy. Thực ra, những lời chỉ trích của ông ấy khá ôn hòa so với những cuộc công kích thô lỗ được thực hiện bởi vài người chỉ trích, trong số đó có hai người thuộc về Tích Lan và hai hoặc ba người khác là thuộc xứ sở này. Mahāsī Sayādaw đã viết và xuất bản một chú dẫn, bao gồm khoảng 15 trang, tôi dự định dịch nó sang tiếng Anh và gửi ông một bản đúng thời điểm. Có vẻ như Lama Govinda không nghiên cứu phương pháp Satipaṭṭhāna trong tất cả những khía cạnh của pháp môn này, ông ấy cũng không thực hành pháp môn với lòng tín thành và tinh tấn cần thiết phải có để đưa đến thành công.
Mahāsī Sayādaw luôn luôn khuyên chúng tôi phải khoan dung, kiên nhẫn và tha thứ. Chúng tôi hy vọng rằng sau khi ông đã đọc lá thư kế của chúng tôi ông sẽ đủ chín chắn để loại bỏ sự hiểu sai đó.

Với tâm từ,
Trân trọng trong Dhamma
Myanaung U Tin.
-----------
1353 N. STATE PKWY
CHICAGO, Ill, 60610
USA. February 2, 1977

Kính thưa Ven. Myanaung U Tin,

Cảm ơn Ngài rất nhiều về lá thư tuyệt vời của Ngài vào 21 tháng 01, mà tôi nhận sáng nay. Kèm theo là những bản sao của ba lá thư trả lời bài của Lama Govinda mà tôi nghĩ có thể hữu ích. Ngài sẽ vui khi thấy rằng tất cả ba người viết thư đã hấp thu tốt những lời dạy của Sayādaw: họ không có điều gì ngoài lòng bi mẫn đối với Lama vì họ, cũng như Ngài và tôi biết rằng nếu Lama thực hành phương pháp Miến Điện vị ấy cũng được lợi ích và nhận thức pīti-sambojjhaṅgo (hỷ giác chi) và những cảm nghiệm tinh thần hướng thượng khác. Họ đều là những tấm gương mẫu mực về tâm từ và lòng khoan dung đối với người mà chỉ trích đường lối riêng của họ. Chúng ta cần phải hướng tâm từ của chúng ta đến tất cả chúng sanh.
Bản thân tôi đã thực hành kỹ thuật thiền Satipaṭṭhāna vipassanā, “Phương pháp Miến Điện”, trên 15 năm với lợi ích lớn lao. Tôi hy vọng ghé thăm Ngài và Thathana Yeiktha trong năm năm tới cùng với vợ tôi mà cũng đang được lợi ích từ những thiền này. Vào lúc đó tôi sẽ rời khỏi NEWSWEEK sau 25 năm ở tuổi 53. Lúc đó chúng tôi dự định trải qua một số năm ở các nước phương đông.

Mong chờ bản dịch của Ngài.

Với tâm từ,

Trân trọng trong Pháp

Chris Farny.
--------
13 -01-1977

Christopher thân mến,

Cảm ơn về lá thư của ông vào 30- 12. Tôi rất quan tâm đọc bài báo kèm theo “Những nền tảng của niệm” do Lama Govinda viết. Thực rất đáng tiếc rằng, vào cuối đời, Lama không tìm thấy thích hợp để có tính xây dựng nhiều hơn.
Tôi cảm thấy thà chúng ta có thể có tính xây dựng nhiều hơn trong việc góp phần vào việc hòa hợp chung bằng cách ước mong vị ấy được an lạc và giác ngộ trọn vẹn ngay trong đời sống này hơn là phản ứng không tương xứng với tâm trí tích cực của một người già cả.

Cầu mong tất cả chúng sanh được giác ngộ.

Với những lời chúc mừng thân tình nhất và tâm từ.
Trân trọng trong Pháp,
John E. Coleman.
9 Altwood Road,
Maidenhead, Berks. SL 64 IB,
England.

Ghi chú: John E. Coleman là tác giả của "The Quiet Mind" do Rider and Company, London xuất bản lần thứ nhất vào 1971.Trong Chương 5, 6 và 17, tác giả kể lại chi tiết những kinh nghiệm của mình trong Thiền quán Tứ niệm xứ ở Bangkok và Rangoon.
----------
STILLPOINT

21 tháng 01, 1977
Chris thân mến,

Cảm ơn về lá thư của ông và một bản sao bài viết của Lama Govinda.

Phát biểu rằng chú ý không thể được đặt trên sự phồng và xẹp (của bụng) được chứng minh là không xác thực bởi các thiền sinh mà tôi đã đích thân dạy, và họ đã tạo ra sự tiến bộ đặc biệt. Tôi đã thực hành cả hai chỗ ở vùng bụng và mũi. Và tìm thấy cả hai hoạt động khá rõ rệt. Vì thế quan điểm của tôi là tôi biết phát biểu của ông ấy là sai, nhưng tôi không chỉ trích ông ta dưới mọi hình thức. Có lẽ những ý định là tốt, và thông tin không tròn đủ để ông đưa ra một phát biểu chính xác.
(Về) số báo công kích đầy kịch tính của ông ấy về sự hiểu biết của Ven. Mahāsī Sayādaw, tôi sẽ không dính líu đến việc đó. Mặc kệ nó. Hãy thực hành với tâm từ bi. Pháp được dạy rõ ràng để bạn thoát khổ. Hãy thực hành là lời khuyên của tôi.
Kèm theo là một cuốn sách nhỏ mà diễn tả công việc của chúng tôi ở đây. Những sắp xếp tài chính có thể được thực hiện để đáp ứng tình cảnh của mọi người. Nếu quan tâm của ông như ông nói là tịnh tu trong một tháng, thì ông sẽ tìm thấy quyển sách nhỏ này quý giá cho ông. Hiện nay tôi không tổ chức những khóa thiền vào tháng tư hoặc tháng năm. Vào tháng sáu ở đây có mở một khóa lớn khi Anagarika Munindra từ Ấn Độ sẽ ghé thăm nơi này. Vị ấy đã học với Mahāsī Sayādaw và là một thiền sư có tài, mà là thầy và bạn của tôi.
Không gian bị giới hạn vì khóa tu đó, và nếu đó là khóa đầu tiên của ông, tháng hai hoặc tháng ba sẽ là tốt hơn. Vui lòng cho chúng tôi biết các dự định của ông. Tôi xin dừng bút, chúc ông có được niềm vui và bình an trong việc khai mở trí tuệ của mình.

Anagarika Sujata

604 SOUTH FIFTEENTH STREET,
SAN JOSE, CA 95112,
Telephone: (408) - 5307.
--------
UNITY PRESS, INC. 118 New Street,
Santa Crux, CA 950060 (408) 4272020
27 tháng 01, 1977
To: Christopher H. Farny
1353 North State Pkwy
Chicago, Ill, 60610
Chris thân mến,
Tôi đang trả lại séc (check) của ông (kèm theo) cho quyển Satipaṭṭhāna Vipassanā Meditation vì nó đã hết hạn in.
Tôi đề nghị, nếu ông chưa làm như thế, là ông mua EXPERIENCE OF INSIGHT của Joseph Goldstein (U.S. dollar 3.95, Unity Press) cũng như LIVING BUDDHIST MASTERS của Jack Kornfield (U.S. dollar 5.95, Unity Press, còn bán tháng N ăm,1977).
Joseph và tôi đã thảo luận đoạn văn từ sách của Lama và như Joseph nói “Lama nên thử nghiệm và kinh nghiệm Phương pháp trước khi ông ấy đưa ra những xét đoán. Rõ ràng ông ấy hiểu sai những gì quá trình đó đòi hỏi”. Tôi thêm vào ý đó, đối với tôi thực là khá rõ là Lama đang hiểu sai còn sâu đậm hơn cái quá trình mà Mahāsī Sayādaw và những thiền sư Miến khác đã gợi ý mà thực sự khi theo hơi thở, hành giả đang theo xúc giác, cảm xúc mà đi cùng hơi thở trong quá trình thở. Nếu tâm không theo cảm xúc, thì nó đang khái niệm hóa và chỉ có nhiều hành trình tâm hơn mà hành giả đang bị quay cuồng.
Niệm xứ đầu tiên của Đức Phật ở trong thân chính nó là cảm xúc đang theo và đi cùng những quá trình hơi thở, đang đi, đang chuyển động, đang nhai, v.v… Tôi cho rằng Lama đang mất quan điểm trong trường hợp đặc biệt này và không sống theo sự nhạy bén thông thường và những tư tưởng trong sáng của ông ấy.
Dường như ông ấy bị lấn cấn trong suy nghĩ vẫn vơ hơi bay bổng của mình, không hoàn toàn có thể đi vào quá trình danh sắc trong trường hợp đặc biệt này. Con đường chân chánh là tìm ra chúng ta là ai và thấy thực tướng các pháp đang hiển bày.
Việc thấy tâm và các đối tượng sinh và diệt giải thoát chúng ta khỏi những khái niệm về ngã và sự thường hằng, Chúng ta không cần làm gì khác hơn là tỉnh thức và không khái niệm hóa kinh nghiệm của chúng ta, ý thức về sinh và diệt của tất cả hiện tượng, chỉ để mọi thứ hữu ích hơn cho sự tỉnh thức của chúng ta.

Hãy để nó tỏa sáng
Stephen Sevine
SL: als

Tài liệu đính kèm (danh mục)
Ghi chú:
Joseph Goldstein là đồ đệ của Anagarika Munindra đã nghiên cứu Buddha-dhamma và thực hành Satipaṭṭhāna vipassanā meditation ở Thathana Yeiktha, Rangoon, trong một số năm, vừa là một cư sĩ vừa là một tu sĩ.
Jack Kornfield là đồ đệ của Sayādaw U Arsabha người Miến ở Cholburi, Thái Lan, nơi vị ấy đã thực hành Satipaṭṭhāna vipassanā meditation trong nhiều năm, với tư cách là tu sĩ, Bhikkhu Santi Dhammo. Venerable Sayādaw U Arsabha là một thiền sư ở Thathana Yeiktha, Rangoon, trước khi chuyển đến Thái Lan cách đây khoảng 20 năm.
Stephen Levine đã xuất bản những sách sau đây trong một loạt sách về Niệm:
1. The Satipaṭṭhāna Vipassanā Meditation by the Venerable Mahāsī Sayādaw. (Thiền quán Tứ niệm xứ của Venerable Mahāsī Sayādaw)
2. Practical Insight Meditation by the Venerable Mahāsī Sayādaw. (Thiền quán thực tiễn của Venerable Mahāsī Sayādaw)
3. The Power of Mindfullness by the Venerable Ñ āṇaponika Thera. (Năng lực Niệm của Venerable Ñā ṇaponika Thera)
--------
Thathana Yeiktha,

16, Hermitage Road,
Rangoon, Burmar.

February 19, 1977

To: Mr. Christopher Farny 1355, N. State Parkway,

Chicago, Illinois, 60610, U.S.A.

Ông Farny thân mến,
Tôi tin rằng ông đã nhận thư trước của tôi, đề ngày 21, tháng 01, trong đó tôi đã đề cập rằng lời chỉ trích của Lama Govinda là khá ôn hòa so với những công kích thô lỗ được đưa ra bởi một vài người chỉ trích nhằm vào Venerable Mahāsī Sayādaw vì phương pháp thiền Tứ niệm xứ do Ngài dạy. Hai người chỉ trích thuộc về Tích Lan (Ceylon) bây giờ là (Sri Lanka). Họ là những nhà sư học thức và khả kính mà rõ ràng được thúc đẩy bởi một “ước vọng chân thành muốn tin chắc rằng một giáo pháp thuần tịnh tiếp tục vì lợi ích cho hậu thế”.
Rất đáng tiếc thay những lời chỉ trích của họ lại được diễn đạt bằng một ngôn từ độc hại, mà hủy hoại mục đích tốt lành của họ. Những lời chỉ trích này được đưa ra vào năm 1957, đó là năm sau khi kết thúc hội nghị kết tập (Saṅgāyanā) kinh điển Phật giáo lần thứ sáu, được tổ chức ở Rangoon, có sự tham dự của những đại diện các quốc gia theo Phật giáo Theravāda, dĩ nhiên bao gồm Tích Lan. Cần nhắc lại rằng Mahāsī Sayādaw là Pucchaka (người hỏi) trong hội nghị trang trọng đó.
Theo lời khuyên của Mahāsī Sayādaw, không có bất cứ hành vi chống đối nào, rõ ràng vì sự tiếp tục hòa hợp giữa hai xứ sở Phật giáo Therav āda, Tích Lan và Miến Điện. Thay vì chống đối, Mahāsī Sayādaw và the Buddha Sāsana Nuggaha Organisation đã phái các thiền sư đến Tích Lan dạy kỹ thuật Tứ niệm xứ, theo yêu cầu của một số chư sư và cư sĩ của xứ sở đó. Các trung tâm thiền họ dạy vẫn còn ở đấy.
Khoảng  bảy năm sau, đã có một người chỉ trích ở trong xứ sở của chúng tôi, một nhà sư học thức, đang phụ trách hướng dẫn các hành giả của ông tại một trung tâm thiền ở Syriam (một thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha) bên kia sông Rangoon.
Ngôn từ ông dùng không kém phần gay gắt, nhưng Mahāsī Sayādaw không phải là nạn nhân duy nhất mà ông bắt lỗi. Trong số những người khác là Đại trưởng lão Ledī Sayādaw xưa nay được công nhận là một người có uy tín lớn về Buddha-dhamma, cả pháp học và pháp hành, cũng bị chỉ trích khá thậm tệ.
Sách của Syriam Sayādaw đã lên đến trên 800 trang. Ông cũng có hai phụ tá, lúc đó chuyên trách mục báo chí, mà rất thích thú trong những việc chế nhạo. Syriaṃ Sayādaw và hai phụ tá của ông nay không còn nghe ai nói đến nữa. Trước khi sự nghiệp của họ chấm dứt, Mahāsī Sayādaw đã xuất bản một quyển chú dẫn về thực hành thiền của Ngài (cụ thể là phồng và xẹp của bụng) có tham chiếu đến các kinh điển Pāḷi, các Chú giải và các Phụ chú giải.
Trong lá thư trước tôi có hứa gửi ông một bản sao bản dịch tiếng Anh về chú dẫn của Mahāsī Sayādaw, mà gồm có khoảng 14 hoặc 15 trang. Khi tôi bắt đầu dịch, một ý nghĩ nảy sinh trong tâm trí tôi rằng để đương đầu với những lời chỉ trích của Lama Govinda sẽ là tốt hơn, khi tận dụng những điểm nổi bật trong chú dẫn của Mahāsī Sayādaw và những tham khảo với một hoặc nhiều quyển sách hơn.
Điều hoàn toàn rõ ràng rằng lời chỉ trích của Lama lỗi lạc đã căn cứ vào quyển sách “An Experiment in Mindfullness” của chuẩn đô đốc E.H. Shattock. Thế nhưng, quyển sách đó không nên được xem là chứa đựng những hướng dẫn đầy đủ về phương pháp của Mahāsī Sayādaw. Chắc chắn, chỉ có dựa vào quyển sách đó là không công bằng, mà cũng chỉ là loại sách hướng dẫn du lịch. "The Heart of Buddhist Meditation" của Ñāṇaponika Thera là một quyển sách đáng tin cậy về thiền Tứ niệm xứ. Do đó, người ta cho rằng Lama lỗi lạc đã đọc nó rồi, trong sách này cái gọi là phương pháp Tứ niệm xứ Miến Điện được giải thích bằng những ngôn từ rất rõ ràng. Tôi tin rằng ông và các bạn đạo của ông cũng đã đọc rồi. Tuy nhiên, tôi cần phải yêu cầu ông đọc lại Chương 5, Phần một (Phương pháp niệm xứ Miến Điện) vì nó đáng quan tâm đặc biệt.
Vấn đề nan giải trong lời chỉ trích của Lama học thức là sự chuyển động của bụng. Vị ấy khẳng định: “Họ thay thế nó (ānāpānasati) bằng sự nông cạn nhất trong tất cả phương pháp, tức là, quan sát sự phồng và xẹp của bụng, như vậy làm chệch hướng chú ý của hành giả ra khỏi kinh nghiệm thực của tiến trình hơi thở.
Sự khẳng định này được dựa vào sự hiểu sai. Phồng và xẹp của bụng không phải để thay thế quá trình hơi thở. Không hề loại trừ nó, cái trước còn bổ sung nó. Nơi đây, tôi xin giới thiệu ông đi đến đoạn cuối của Chương 5 trong quyển sách của Ñāṇaponika Thera. Nếu một hành giả thích quán sát hơi thở hơn vị ấy có thể đi cùng với nó. Nhưng nếu vị ấy tìm thấy nó khó làm thì hành giả đó được khuyên quan sát sự phồng và xẹp của bụng mà có những thuận lợi riêng của nó.
Kinh Phật về thiền Tứ niệm xứ đề cập đến bốn loại niệm trọng yếu. Đầu tiên là tùy quán thân. Phần một đề cập đến hơi thở. Phần hai đề cập đến oai nghi của thân hoặc những cách đi đứng. Dòng cuối của đoạn thứ nhất trong phần hai là “Thân của vị ấy được điều khiển như thế nào, vị ấy biết nó như thế đó”, câu đó cũng được dịch như vầy: “vị ấy biết bất cứ oai nghi khác của thân”. Xin đọc lần nữa đoạn thứ ba kể từ cuối Chương 5.  Ñāṇaponika Thera nói: “Nó chia sẻ trường hợp đó với nhiều quá trình vật lý và tâm lý khác mà cũng không được đề cập rõ ràng trong các kinh điển, tuy nhiên thuộc về lĩnh vực bao hàm toàn diện đối tượng của niệm”.

Ta có thể thấy rằng “như thân được sử dụng, vì thế vị ấy hiểu nó” là một từ bao quát. Trong chú dẫn của Mahāsī Sayādaw được nhắc đến ở trên, Ngài giải thích rằng sự chuyển động của bụng không phải là sự thay thế quá trình hơi thở nhưng là một quá trình vật lý được bao hàm bởi từ bao quát, mà được gọi là “sabbasaṅ gahika” trong các Chú giải Pāḷi và các Phụ chú giải.
Mahāsī Sayādaw chỉ ra rằng sự chuyển động của bụng, như bất cứ tư thế khác của thân, thuộc về phần hai. Trong Anatta Dīpanī, Ledī Sayādaw đã giải thích rằng tất cả những chuyển động vật lý ngoài bốn oai nghi chính của thân được bao hàm bởi từ bao quát được đề cập ở trên và chúng là những đối tượng của tùy quán.
Giải thích của Ledī Sayādaw được căn cứ vào các Chú giải và các Phụ chú giải liên quan, tức là Chú giải Dīgha Nikāya 2-538, Phụ chú giải Majjhima Nikāya 1-353 (các quyển và các trang đề cập đến những sách được ấn bản kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ sáu công nhận). Sự thực là có hai giải thích Phụ chú giải có thể lựa chọn về mặt này.
Theo giải thích Phụ chú giải I, từ bao quát chỉ gồm có bốn oai nghi chính của thân. Phụ chú giải II đưa ra quan điểm rằng từ bao quát gồm có tất cả những chuyển động của thân, ngoài bốn tư thế chính.
Ở đây cần phải chú ý rằng nhà Phụ chú giải đưa ra cho các độc giả thấy rõ hai giải thích lựa chọn, nhưng một nhà Phụ chú giải nhấn mạnh nhiều hơn vào giải thích thứ hai hoặc cái sau không phải là bất thường. Do đó Ledī Sayādaw, sau khi cân nhắc cả giải thích Chú giải lẫn giải thích Phụ chú giải, đã chấp nhận quan điểm rằng từ bao quát (sabba sa ṅgahika) gồm có tất cả những chuyển động thân ngoài ra bốn oai nghi chính.
Dựa vào những quan điểm Chú giải và Phụ chú giải, Mahāsī Sayādaw tin chắc rằng sự phồng và xẹp của bụng, là một quá trình vật lý, nó được bao hàm bởi từ bao quát. Mahāsī Sayādaw dám chắc rằng ngay cả khi nó không được bao hàm bởi từ bao quát cũng không thể không thuộc về phần hai của chương 1, đề cập đến quán sát thân, không ai có thể phủ nhận rằng đó là một đối tượng quán sát chính đáng, trong ý nghĩa rằng “nó chia sẻ trường hợp đó với những quá trình vật lý và tâm lý khác mà cũng không được đề cập rõ ràng trong các kinh điển, nhưng thuộc về lĩnh vực bao hàm toàn diện đối tượng của niệm.
Những từ của Lama học thức đến với tâm trí tôi khi tôi đang đánh máy “Đức Phật không bao giờ cấm các đệ tử tự suy nghĩ, ngài cũng không thiết lập một giáo điều mà loại trừ vấn đề như thế”. (hai câu cuối trong bản sao). Điều mà Mahāsī Sayādaw tự nghĩ được chứng minh đầy đủ bằng sự bao gồm phồng và xẹp của bụng như một đối tượng quán sát; nhưng chắc chắn không loại trừ thực hành hơi thở. Bất ngờ, nó có thể được đề cập rằng não là một phần của thân không được tìm thấy trong các kinh Phật nhưng nó được bao gồm như thế trong Paṭisambhidāmagga mà được tin là tác phẩm của Sāriputta Thera, đệ tử hàng đầu của Đức Phật.
(Trước khi tôi tiến hành tôi phải thừa cơ hội này để quan sát rằng Lama học thức bắt lỗi Mahāsī Sayādaw, chỉ dựa vào một đoạn từ quyển sách của đô đốc Shattock, trong đó có nêu lên một câu hỏi về sự liên kết giữa tâm trí và bộ não vật lý và một câu trả lời kèm theo đó. Chắc chắn, Mahāsī Sayādaw không nên bị hạ nhục là thiếu kiến thức về công việc của tâm trí tương quan với thân cả lý thuyết lẫn tuệ quán về chúng trong một số năm đáng kể.
Chúng tôi không thể không cười nhạo sự bôi nhọ vu vơ của Lama học thức. Chúng tôi được cho biết rằng Lama Govinda trước đây là một nhà sư Theravāda, và nếu như vậy, chúng tôi tự hỏi tại sao và khi nào vị ấy trở thành một Lama. Chúng tôi cũng lấy làm ngạc nhiên vì cái tựa trong quyển sách của ông: “Thiền sáng tạo và tâm thức đa chiều”. Chúng tôi cũng chú ý rằng quyển sách đó được xuất bản bởi nhà xuất bản thông thiên học, U.S.A. và London.
Lama học thức có vẻ như đang bị lấn cấn vì sự ngộ nhận khi vị ấy chỉ trích như vầy: “đụng, đụng, đụng … dở lên, dở lên, dở lên, v.v…theo đó mỗi chuyển động bị động từ hóa ...như thể sự dở lên, sự đụng chạm, sự đặt xuống v.v…là điều gì mà tự nó xảy ra”, điều mà luôn luôn có sự liên hệ danh sắc là rõ ràng.
Khi dùng những từ của Lama học thức, người không có “thái độ tiêu cực và thành kiến” sẽ không quên đánh giá những chuyển động chi tiết này liên quan với bốn oai nghi chính. Xin đọc phần giải thích ở Chương 5 trong quyển sách của Ñāṇaponika Thera.
Chúng tôi tôi không có mong muốn tham gia vấn đề với Lama học thức về lời giải thích “ý thức trọn vẹn” trong đoạn đầu tiên mà vị ấy chỉ trích. Ý thức trọn vẹn khi chúng ta thuộc về những gì được ngụ ý trong đoạn 2 của phần 2, khi đề cập đến oai nghi của thân, chúng tôi hy vọng, Lama học thức sẽ đánh giá điều mà một hành giả phải bắt đầu bằng bốn sự chuyển động được đề cập trong đoạn đầu tiên của nó. Như vị ấy tiếp tục, “Trí tự nó sẽ phát sinh” (ñāṇaṃ sayameva uppajjissati).
Bây giờ tôi phải kết luận. Hai nhà sư học thức và khả kính của Tích Lan, mà đã chỉ trích, rất đáng tiếc thay, theo một cách thức cay độc, đã quá cố rồi. Ngoài lời chỉ trích cay độc ra, chúng tôi cảm thấy rằng sự quá vãng của họ là một mất mát lớn cho chính nghĩa Theravāda. Họ đã để lại một số bài viết (các bài báo cũng như các sách), mà rất đáng đọc, nghiên cứu và duy trì.
Chúng tôi cũng cảm thấy rằng họ bị thôi thúc bởi ước vọng chân thành muốn bảo vệ Phật Pháp nhưng bị lòng nhiệt thành và hiếu thắng cực đoan lôi cuốn.Về phần Syriam Sayādaw của xứ sở này, càng ít nói càng tốt. Xét theo những gì vị ấy đã nói về một số Sayādaw đa văn, vị ấy phải được xem là chỉ trích gay gắt theo bản chất và đầy tự tin về mức độ đặc biệt. Syriam Sayādaw và những phụ tá của ông vẫn đang sống nhưng không còn mấy sinh lực nữa. Xem như sự chống đối đã im hơi lặng tiếng nơi đây.
Giờ đây, nhờ lòng tốt của ông, chúng tôi biết được chương 5, quyển sách của Lama Govinda lỗi lạc. Sự tín nhiệm phải được nêu ra ở nơi sự tín nhiệm thích đáng. Thực ra ông ta là một nhà văn hay và cái tựa quyển sách của ông ta thực là hấp dẫn. Chúng tôi rất cảm kích sự quan tâm sâu sắc của ông về thiền Tứ niệm xứ và chúng tôi tin rằng ông có thể làm những gì có thể làm để dung hòa những hiểu sai đó. Chúng tôi rải đều tâm từ đến ông và Lama Govinda lỗi lạc.
Chúng tôi có một cảm giác rằng những ngộ nhận trong tâm trí vị ấy sẽ biến mất giá như vị ấy có được cơ hội để đọc những giải thích của chúng tôi và còn tốt hơn, thực hành tích cực thiền Tứ niệm xứ như Mahāsī Sayādaw đã dạy.
Chân lý được chứng minh sau khi đã được chứng nghiệm. Hằng ngàn đệ tử của Ngài đã hưởng lợi ích lớn lao theo phương pháp này và tìm thấy xác chứng do nhờ thực hành thực tế, trong những thuận lợi rõ ràng, được phác họa trong đoạn cuối của chương 5 trong quyển sách của Ñāṇaponika Thera. Cầu mong Lama Govinda lỗi lạc tiến bộ vững mạnh và chắc chắn như một bậc Bồ tát ! Cầu mong ông khỏe mạnh nơi thân và tỉnh thức nơi tâm để đạt được tiến bộ xa hơn trong thiền quán Tứ niệm xứ, và dẫn đến giải thoát tối hậu.

Trân trọng trong Pháp.
Myanaung U Tin,
Nāyaka,
Buddha Sāsana-Nuggaha Organization,
Thathana Yeiktha
Myanaung U Tin,

Tái bút:
Đa tạ về lá thư thứ hai, gửi vào 3 tháng 2, với ba tài liệu đính kèm. Anagarika Sujata, Mr. Stedhen Levine and Mr. Joseph Goldstein quen biết nhiều với chúng tôi. Chúng tôi không thể nhớ lại Mr. John E. Coleman. Chúng tôi đánh giá cao rất nhiều những nhận xét của ông và những bình luận của họ. Tôi tự hỏi ông có thể thu xếp để gửi cho họ một bản sao bức thư này không. Xin cảm ơn ông.

Myanaung U Tin
(một cư sĩ, không phải nhà sư).
Ghi chú-
Thư này viết vào 19 -2-1977. Ven. Syriaṃ Tawya Sayādaw P.K.U.
Tilokanyana từ trần vào 9-3-1977 ở East Rangoon Hospital.
-------
NEWSWEEK 1353, N. State Parkway, Chicago, III, 60610, U.S.A.
March 12, 1977.
From: Christopher Farny
Kính gửi Ven. Nāyaka Myanaung U Tin,

Cảm ơn  Ngài rất nhiều về là thư tuyệt vời và hoàn toàn nhất vào 19, tháng hai. Tôi đã gửi những bản sao cho tất cả bạn đạo của tôi mà Ngài đã gợi ý, bao gồm Lama Govinda. Tò mò thay, Lama G. trước đây là một guru của tôi, mặc dù tôi đã không gặp hoặc liên lạc với ông ấy hoặc vợ ông ấy, Li Gotami trong một vài năm.
Trong “The way of the White Clouds"’ (bây giờ có sẵn trong loại sách bìa mềm) một quyển sách đẹp nhất kể lại chi tiết những kinh nghiệm của ông ấy ở Tây Tạng, ông ấy giải thích làm thế nào ông chuyển từ Theravāda sang Vajrayana (ông ấy bị ảnh hưởng nhiều bởi những phẩm chất tha tâm thông của một vài guru Phật giáo mà ông gặp- những kinh nghiệm thực sự phi thường). Thực kỳ quặc, “hành trình” của tôi đã là sự đảo ngược; từ Vajrayana đến Theravāda (theo ý nghĩa “phương pháp Miến Điện”. Phương pháp Miến Điện không hoàn toàn mới đối với tôi khi tôi bắt đầu thực hành nó cách đây vài năm, vì trong thời kỳ khoảng 20 năm tôi đã thực hành “Tự nhớ” của G.I. Gurdjieff (ở một trong những nhóm của ông ấy) và (Tự ý thức không lựa chọn) của Krishnamurti. Tôi đã thực hành zazen ở thiền viện Soto nhưng tôi không bao giờ được thấy bất cứ nơi nào trong “zen” đặc biệt đề cập đến tự quan sát như trong “Phương pháp Miến Điện”.
Dĩ nhiên, tôi khá quen thuộc với The heart of Buddhist meditation của Ñāṇaponika Thera và chính những từ mà Ngài trích dẫn trong đó đã vào tâm trí tôi ngay khi tôi đọc lời chỉ trích của Lama Govinda về phương pháp Miến Điện – ngay cả trước khi tôi tham gia trao đổi thư từ với Ngài, nhưng tôi cảm ơn đã nhắc tôi về điều đó và vì vậy tôi đã đọc lại chương 5 của vị ấy. Giải thích của vị ấy chắc chắn sành sỏi.
Nếu tôi nhận một thư trả lời từ Lama Govinda – thì tôi đã viết cho ông ấy gửi nhà xuất bản của ông ấy, nhà xuất bản Thông thiên học ở Wheaton, Ill. Tôi sẽ báo cho Ngài biết. Tôi hy vọng thư của Ngài sẽ giúp Sadhana (sự tu hành) của ông ấy. Ai mà biết được, có lẽ ông ấy sẽ tiếp tục thiền quán Tứ niệm xứ lần nữa. Tôi tin lá thư xuất sắc của Ngài sẽ soi sáng ngộ nhận của ông ấy. Tôi cũng tò mò về lý do thực sự tại sao ông ấy ra khỏi tông phái Theravāda.

Hãy tiếp tục thiện sự!
Những lời chúc thân tình nhất đến Ngài và Mahāsī Sayādaw,
Với tâm từ
Chris.

 

Bài viết năm 2023 khác