Thiền Quán - Chỉ Trích và Phản Bác 01 Tỳ kheo Giác Lộc

24/02/2023 - 08:21   808

 THIỀN QUÁN TỨ NIỆM XỨ (1)

Chỉ Trích Và Phản Bác

Tỳ kheo Giác Lộc

Dịch từ bản tiếng Anh

Satipaṭṭhāna Vipassanā

Criticisms And Replies

(Theo bản in 1979, Rangoon, Burma)

 

LỜI GIỚI THIỆU

Trong hội nghị kết tập tam tạng lần thứ sáu (1954-1956), phương pháp mà người ta gọi là thiền Tứ niệm xứ của Miến Điện đã truyền bá sang Thái Lan và Tích Lan. Không phải vì đó là một phát minh của Miến Điện nhưng vì chính là ở Miến Điện mà thiền này được phục hồi đáng chú ý kể từ đầu thế kỷ 20. Sau khi tôi dự một khóa đào tạo chuyên sâu dưới sự hướng dẫn riêng của Đại trưởng lão Mingun Jetavana Sayādaw ở trung tâm thiền Thaton, tôi bắt đầu phổ biến lời dạy của ngài cho các bà con thân thích của tôi ở quê nhà Seikkhun, gần Shwebo và cũng dạy cho các đệ tử của tôi ở Taung-waing-galay Kyaung, Moulmein, là trú xứ của tôi.

Khi thế chiến thứ 2 bùng nổ, tôi phải trở về quê nhà của tôi, ở đó tôi tiếp tục hướng dẫn các lớp thiền cho các sư cũng như các cư sĩ. Ở đấy tôi thấy có thời gian để viết hai quyển về thiền quán. Quyển đầu bàn đến những vấn đề pháp học và quyển thứ hai bàn đến những khía cạnh pháp hành, tức là: Practical insight meditation và The progress of insight. Tôi cũng dịch sang tiếng Miến Điện, Mahā Satipaṭṭhāna Sutta (Kinh Đại Niệm xứ), với những chú thích phong phú dựa vào kinh điển Pāḷi, các Chú giải và các Phụ chú giải.

Sau chiến tranh, không lâu sau khi tôi trở về Moulmein, Miến Điện đã giành được độc lập (04 -01- 1948). Theo yêu cầu của Thủ tướng lúc đó là U Nu và ông U Thwin, Chủ tịch của the Buddha Sāsana Nuggaha Organization, tôi đến Rangoon vào tháng 11, 1949 để dạy phương pháp Tứ niệm xứ. Bắt đầu với Thathana Yeiktha, Rangoon, bây giờ có những chi nhánh khắp xứ sở này. Khởi đầu có 25 hành giả, bây giờ có nhiều ngàn người thực hành phương pháp quanh năm. Họ hưởng được lợi ích nhờ phương pháp này, phương pháp được dạy bởi các Kammaṭṭhānācariya (thiền sư), mà đã có quá trình đào luyện nơi đây. Tuy nhiên đây không phải là chỗ dừng lại chi tiết về sự tiến bộ được thực hiện trong thời kỳ 26 năm.

Như tôi đã nói, phương pháp mà người ta gọi là phương pháp Tứ niệm xứ Miến Điện đã truyền sang Tích Lan trong hội nghị kết tập tam tạng lần thứ sáu. “Những bài học trong Practical Basic Exercises in Satipaṭṭhāna Vipassanā Meditation” của tác giả Mahāsī Sayādaw được the Lanka Buddha Mandalay xuất bản vào năm 1955 theo yêu cầu của the Lanka Vipassanā Society.

Ở Kanduboda gần Colombo, một trung tâm thiền đã được mở ra. Những công kích thô lỗ được đưa ra bởi Ven. Kassapa Thera và Ven. Soma Thera của Vajirama, Colombo. Những bài báo của họ và một vài người khác được xuất bản dưới dạng loại sách nhỏ bởi ông Henry Herlis nào đó, trong năm 1957. Theo lời tôi khuyên, the Buddha Sāsana Nuggaha Organization mà thủ tướng U Nu là thành viên lãnh đạo trong đó, đã chọn cách lờ đi những công kích thô lỗ đó, nhưng thực hiện các bước đi để gửi các thiền sư, hết người này đến người khác sang Tích Lan. Theo dòng thời gian sự chống đối quá khích đã biến mất.

Vào năm 1966, chúng tôi được thông báo rằng Ven. Kheminda của Vajirama, Colombo, đã viết một bài báo trong “World Buddhism”, tạp chí Phật giáo quốc tế, được xuất bản ở Tích Lan, chỉ trích quan điểm của tôi rằng sát na định được bao gồm trong cận hành địnhmà tôi đã giải thích tóm tắt trong “The Progress of Insight” là một luận đề về thiền Tứ niệm xứ, do tôi viết bằng Pāḷi và đã được dịch sang tiếng Anh bởi Ñāṇaponika Thera, tác giả của “The Heart of Buddhist Meditation”.

Ven. Ñāṇaponika Thera đã gửi chúng tôi một bản phát hành trong tháng 7, 1966 của tạp chí trong đó bài viết này xuất hiện. Tôi đã chuyển nó cho Ven. Sayādaw U Ñāṇuttara, Agga Mahā Paṇḍita đã quá cố, lúc đó đang ngụ ở Jambudipa Hall, gần Thạch động thiêng liêng nơi tổ chức kết tập tam tạng lần thứ sáu. Vị ấy đã viết một bài Phản bác được xuất bản trong tạp chí đó, đăng làm hai kỳ. Ven. Kheminda đã viết một bài Đáp trả cho phần Phản bác đó cũng được xuất bản trong tạp chí đó, đăng làm nhiều kỳ. Ven. Sayādaw U Ñāṇuttara đã viết một bài Bác bỏ dành cho phần Đáp trả phần Phản bác. Toàn thể loạt bài đăng đó mất gần ba năm. Tôi phải đề cập rằng Ven. Sayādaw U Ñāṇuttara được trợ giúp khéo léo bởi Ven. Janakābhivaṃsa, một thiền sư của trung tâm thiền này và Myanaung U Tin, lúc đó là phó chủ tịch (sau này là chủ tịch và bây giờ là một Nāyaka) của Buddha Sāsana Nuggaha Organization.

Trong xứ sở của chúng tôi xuất hiện hai người chỉ trích, một người là cư sĩ và người kia là nhà sư. Người sau là Syriaṃ Tawya Sayādaw P.K. U Tilokañāṇa, người đã viết một quyển sách (trên 800 trang) không màng đến ai, kể cả Đại trưởng lão Ledī Sayādaw trong những lời chỉ trích của ông.

Tôi đã viết một bản chú dẫn được xuất bản như một phụ lục cho một số trong những ấn phẩm của tôi. Nhân đây, có thể đề cập rằng tôi đã viết và xuất bản hơn 30 quyển sách, bao gồm những bản dịch tiếng Miến Điện bộ Visuddhimagga của Ven. Buddhaghosa (Vols. I to IV) và những bản dịch tiếng Miến Điện Paramatthamaṅjūsa hoặc Mahā Ṭīkā của Ven. Dhammapāla (Vols I to IV).

Chúng tôi được thông báo vào tháng 01, 1977, rằng Lama Govinda đã chỉ trích phương pháp thiền Tứ niệm xứ của chúng tôi trong quyển sách của ông "Thiền sáng tạo và tâm thức đa chiều". Một bản sao chương 5 của quyển sách đó đã được ông Christopher Farny ở Chicago, U.S.A gửi cho tôi. Bản sao đó tôi đã chuyển cho Myanaung U Tin, mà đã viết một bài hồi đáp những lời chỉ trích của ông ấy và gửi bài đó cho ông Farny. Trong khi ông đang chuẩn bị bài hồi đáp thì ông đã nhận một lá thư khác từ ông Farny, với ba tài liệu đính kèm: những bình luận về lời chỉ trích của Lama Govinda bởi bốn người bạn đạo của ông ấy, mà rõ ràng hiện đang thực hành phương pháp thiền Tứ niệm xứ của chúng tôi .

Myanaung U Tin, mà đang giúp tôi trong việc truyền giáo ở nước ngoài hơn mười năm qua, đưa ra ý kiến và tôi đồng ý với ông, rằng hiện giờ là đúng thời để xuất bản tất cả những trang này dưới dạng sách. Tôi phải phân công in ấn và xuất bản quyển sách cho ban điều hành của the Buddha Sāsana Nuggaha Organization.

Tóm lại, tôi xin nói rằng tôi đã xem tất cả những Phản bác, những Bác bỏ và những Đáp trả này trước khi chúng được phân phát và tôi hầu như không có thêm hoặc bớt bất cứ điều gì trong đó. Tôi xin phúc chúc đến tất cả ai có liên quan.

Chính tôi phải tận dụng cơ hội này để bày tỏ lòng cảm kích lớn lao của tôi, với lòng tri ân sâu đậm về những việc phục vụ của Ven. Ñaṇaponika Thera, người đã không ngại khổ nhọc để truyền bá phương pháp thiền Tứ niệm xứ đến toàn thế giới.

Mahāsī Sayādaw

Bhaddanta Sobhana

Mahāsī Sayādaw.

22-2-77
-----------

LỜI NÓI ĐẦU

Trong Lời Giới Thiệu, Venerable Mahāsī Sayādaw phát biểu: “Myanaung U Tin, người đang giúp tôi trong việc truyền giáo ở nước ngoài hơn mười năm qua đưa ra ý kiến và tôi đồng ý với ông, rằng hiện giờ là đúng thời để xuất bản tất cả những trang này dưới dạng sách”. Sayādawgyī và tôi xấp xỉ niên kỷ, thuộc lứa tuổi thất thập, phận sự của chúng tôi là thông báo cho các thiền sư (Kammaṭṭhānācariya) và the Buddha Sāsana Nuggaha Organization về những lời chỉ trích được đưa ra do sự ngộ nhận trong vài trường hợp và do ác ý nơi những người khác.

Mahāsī Sayādaw luôn luôn khuyên chúng tôi khoan dung, tha thứ và kiên nhẫn. Ngài tuân theo và khuyến khích chúng tôi tuân theo Phật ngôn: Aviruddhaṃ viruddhesu, attadaṇḍesu nibbutaṃ;

Sādānesu anādānaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ - Ai thân thiện giữa những kẻ thù nghịch, bình lặng giữa những kẻ hung hăng, không tham đắm giữa những kẻ tham đắm, Như Lai gọi người ấy là một Bà la môn.

Những Đáp trả, những Phản bác, những Bác bỏ chứa trong sách này làm chứng cho sự thực rằng chúng ta đã đối mặt với những lời chỉ trích theo cung cách khách quan, với mục đích duy nhất là giũ bỏ những ngộ nhận và những thành kiến. Tự chúng đã sáng tỏ và chúng tôi tin, những nội dung trong đó sẽ hữu ích cho hậu thế khi gặp những lời chỉ trích và những bình luận ngang ngược không những liên quan với phương pháp thiền Quán Tứ niệm xứ do Mahāsī Sayādaw chỉ dạy, mà còn với những chủ đề tương quan.

Những chú dẫn của Sayādawgyi đã được xuất bản làm những phụ lục cho một số sách của vị ấy và chúng sẵn sàng để sử dụng cho cùng mục đích, cũng như cho việc nghiên cứu chi tiết.

Giờ đây, người ta có thể đề cập tóm tắt những người chỉ trích: Ven. Kassapa Thera, Ven. Soma thera and the Ven. Kheminda Thera. Ven. Kassapa Thera trước đây là bác sĩ Cassius A. Pereira, L.R.C.P. (London), M.R.C.P. (England). Với tư cách là một bác sĩ, đầu tiên ông ở trong dịch vụ chính phủ và kế đó trở thành bác sĩ tư đa khoa trong khoảng bốn mươi năm. Trong đời sống sau này ông trở thành một nhà sư và ông ở tuổi bảy mươi lăm khi mà ông, rõ ràng bị thôi thúc bởi một ý muốn nhiệt thành để bảo vệ Phật Pháp, đã đưa những lời công kích thô lỗ nhằm vào Mahāsī Sayādaw và phương pháp thiền Tứ niệm xứ do ngài giảng dạy. Ven. Soma Thera nói về ông như vầy: “Là một nhà vô địch của Theravāda, lời dạy nguyên thủy của Thế Tôn, ông đã vận dụng cây bút vĩ đại của mình với hiệu quả tuyệt vời, tống khứ những kẻ thù của diệu pháp, làm cho lời dạy thuần túy của bậc đạo sư oai lực khắp thế giới chiếu sáng rực rỡ”.

Ven. Soma thera trước đây là Victor Emmamual Perera Pulle và Ven. Kheminda Thera, trước đây là G.S. Prelis, đã thọ đại giới vào 6-11, 1936 với thầy tế độ là Ven. Pandava Mahā Thera của Taung-waing-gyi Shwegyin Kyaung Taik, Moulmein.Trong chuyến lưu lại Miến Điện ngắn ngủi này, họ có nghe nói đến Venerable Narada Thera, cũng được biết là Jetavana Sayādaw. Họ ghé thăm Sayādaw ở Thaton. Ven. Kheminda viết như vầy: “Phương pháp của ngài hoàn toàn theo đúng các Kinh Tứ niệm xứ trong Dīgha and Majjhima Nikāya và các chú giải của chúng”.

Ven. Soma Thera từ trần vào đầu năm 1960. Một người bạn cũ vui tính của Ven. Soma đã nói về Thera như vầy: “Thiền định, nghiên cứu, dạy Pháp, sưu tầm kinh điển và sự gian khổ của bản thân trong quá trình đó đã tạo ra sự chuyển biến lớn lao trong Soma thera. Nhiệt tình sôi nổi của người cư sĩ chuyển thành trầm tịnh. Người tranh luận hiếu chiến hôm qua trở thành vị thầy điềm tĩnh và người cố vấn thân thiện…” Ven. Kheminda Thera là bạn rất thân khi còn là cư sĩ cũng như là khi cả hai là nhà sư. Họ là đồng dịch giả tác phẩm Vimuttimagga (Giải thoát đạo) từ tiếng Nhật sang tiếng Anh cùng với Rev. N. R. M. Ehara, người Nagasaki, Japan.

Ven. Kheminda Thera đã viết trong Lời nói Đầu bản dịch tiếng Anh Vimuttimagga, khi nó được xuất bản sau cái chết của những đồng dịch giả của ông: “Đây là một dịp thích hợp để tưởng niệm đến hai đồng dịch giả trưởng thượng của Vimuttimagga, the Reverend N. R. M. Ehara và the Venerable Soma Mahā Thera …Người ta sẽ thấy rằng tác phẩm này được đảm nhiệm do hoàn cảnh bắt buộc và không vì trình độ chuyên môn về phần tôi…. Mặc dù tôi không chuyên môn trong những hoạt động theo đuổi uyên thâm nhưng tôi lại đảm nhận trong công việc này, cho nên chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót.

Chúng tôi không quy những động cơ ác ý cho Ven. Kassapa Thera và the Ven. Soma Thera, nhưng chúng tôi rất tiếc rằng họ tự cho phép mình bị lôi cuốn bởi lòng nhiệt tình và thích gây sự quá đáng. Ven. Kheminda rõ ràng có một tính khí ôn hòa và bản chất khiêm tốn. Chúng tôi tin rằng vị ấy đã được thuyết phục bởi những gì Ven. Sayādaw U Ñāṇuttara đã giải thích cẩn thận và kiên nhẫn nhất khi hồi đáp những bài viết của vị ấy. Chúng tôi lấy làm hài lòng vì đã đọc một số sách rất bổ ích của ba vị trưởng lão viết. Chúng tôi tin rằng các độc giả nói tiếng Anh sẽ nhớ các vị trong một thời gian dài.

Lama Govinda, chúng tôi không có gì nhiều để nói ngoại tr người ta cho chúng tôi biết rõ trước đây ông là một nhà sư Theravāda. Nếu đúng như thế, chúng tôi không thể làm gì ngoài việc tự hỏi tại sao và khi nào vị ấy trở thành một Lama. Chúng tôi cảm thấy rằng ông ta đang ảo tưởng vì sự ngộ nhận khi ông chỉ trích điều gọi là phương pháp Tứ niệm xứ Miến Điện. Nếu ông thực hành phương pháp này với tín và tấn ắt ông sẽ không tiến tới những quan điểm đối nghịch. Những lời chỉ trích của ông đã được đáp ứng và chúng tôi hy vọng ông giờ đây sẽ thấy phương pháp này dưới một góc nhìn mới mẻ.

Chúng tôi xin tỏ lòng tri ân đến tất cả những ai đã góp nhiều công sức để giúp cho việc xuất bản này được thành tựu: Buddha Sāsana Nuggaha Organization và Buddha Sāsana Council Press


Myanaung U Tin

Nāyaka,
Buddha Sāsana Nuggaha Organization,

Thathana Yeiktha,

Rangoon.
22-2-77

------------------

Phần Một

Sát Na Định Và Tâm Thanh Tịnh

Tác Giả: Kheminda Thera (Tích Lan)


(Những chữ viết tắt: A= Aṅguttara Nikāya; M = Manorathapūraṇī (chú giải Aṅguttara Nikāya); D = Dīgha Nikāya; S= Saṃyutta Nikāya; Vis. Mag= Visuddhimagga (P.T.S.ed); Pm.= Paramatthamañjūsā (chú giải Visuddhimagga), Mahā Ṭīkā; P.P. = Path of Purification (Ñānamoli Thera dịch).

Có ba loại định được đề cập trong các chú giải: “Khi lạc được nuôi dưỡng và làm cho thuần thục nó làm cho hoàn hảo ba loại định, đó là, sát na định, cận hành định và an chỉ định”. (1) Trong ba định này, sát na định có thời gian ngắn nhất, kế đến là cận hành định và thứ ba là an chỉ định kéo dài thời gian nhất.

Tuy nhiên bằng cách phát sinh, đối với người chứng thiền đang tu tập quán, cận hành định đến trước; kế đến là an chỉ định được theo bởi sát na định như vầy:

1 “Và nó (cận hành định) là sự nhất tâm mà đi trước an chỉ định”
2 "Kế đến nó (định) gồm có hai loại là cận hành và an chỉ". (3)
Về điểm này Paramatthamañjūsā bình luận:
“Tầm mà sinh khởi như thể thu hút các pháp tương ưng vào đối tượng là an chỉ (appanā).
Do đó nó được diễn tả là sự an chỉ “Thu hút, chuyên chú vào đối tượng (appanā byappanā)” (M.III, 73).
Vì đó là điều quan trọng nhất, cách dùng của các chú giải để gọi tất cả các pháp thiền cao quý và đáo đại là ‘an chỉ’ (cũng như bản thân tầm) và cũng để áp dụng thuật ngữ thông dụng ‘cận hành’cho thiền hữu hạn (tức là thiền dục giới) mà báo trước sự phát sinh của cái trước, giống như từ ngữ ‘lối tiếp cận ngôi làng’ v.v… được áp dụng cho vùng lân cận của một ngôi làng. (4)
3. (a) “Tập trung (samādahaṃ) tâm: đặt (ādahanto) tâm một cách cân bằng (samaṃ), đặt tâm cân bằng trên đối tượng của nó bằng sơ thiền v.v….
4. Hoặc sau khi vào những thiền đó và xuất khỏi chúng, vị ấy tuệ quán cái tâm kết hợp với thiền phải bị hoại diệt, lúc đó ở khoảnh khắc quán xác thực, sát na nhất tâm phát sinh do thể nhập các tướng (vô thường v.v…) (5)
Và bình luận của Paramatthamañjusā là (b) “Sát na nhất tâm”: Định chỉ kéo dài trong một sát na. Vì khi định này khởi lên không gián đoạn trên đối tượng trong một hành tướng và không bị chinh phục bởi pháp đối nghịch, nó cũng làm cho tâm khắn khít không xao động như thể trong an chỉ. (6)
4. (a) “Những âm thanh này rõ ràng ngay cả với tâm bình thường” (7) Pm. bình luận về điều này: “Tâm sát na định này, mà do sự thực rằng công việc chuẩn bị tùy thuộc vào âm thanh đã được thực hiện, tâm đó phát sinh trong người đã chứng đạt thiền căn bản và sau khi xuất khỏi thiền vì mục đích làm sinh khởi thiên nhĩ giới”.(8)
Trong lần xuất bản gần đây có nhan đề "The Progress of Insight' của Mahāsī Sayādaw U Sobhana Mahāthera, người Miến Điện" là ‘một luận đề về thiền Tứ niệm xứ của Phật giáo’ được Ñaṇaponika Mahāthera dịch từ nguyên bản Pāḷi sang tiếng Anh, trên trang 5 của tác phẩm đó có đoạn như sau:

“Nhưng phải chăng trong các Chú giải có nói rằng từ ngữ ‘Tâm thanh tịnh’ chỉ áp dụng cho cận hành định và an chỉ định?

Đúng như vậy, nhưng chúng ta phải hiểu phát biểu này theo ý nghĩa là sát na định được bao gồm trong cận hành định”.

“Vì trong Chú giải Kinh Niệm xứ có lời rằng: “Mười hai phần thực tập còn lại là những đề mục thiền duy nhất đưa đến cận hành định”.

Giờ đây trong trường hợp của những đề mục bàn đến những phần trong Kinh Niệm xứ nói về các oai nghi, tỉnh giác và tứ đại, định của người chuyên tâm vào những phần thực hành này dứt khoát sẽ chỉ là sát na định.

Nhưng vì sát na định có thể chế ngự các triền cái giống như cận hành định và vì nó gần với định an chỉ của thánh đạo, do đó sát na định đó được nói đến với tên là ‘cận hành’ và những đề mục thiền mà tạo ra sát na định đó cũng được gọi là ‘những đề mục thiền đưa đến cận hành định. Do đó chúng ta nên hiểu rằng sát na định, khi có khả năng chế ngự các triền cái, cũng có quyền mang tên ‘cận hành’ và ‘tâm thanh tịnh’. Nếu không thì ‘Tâm thanh tịnh’ không thể phát sinh nơi người đã làm cho thuần quán thành cỗ xe, bằng cách chỉ dùng Quán mà không có tạo ra cận hành định hoặc an chỉ định’.

Một số điểm được nêu ra trong đoạn trên được thảo luận bên dưới:

A. Trong khi thừa nhận rằng các Chú giải phát biểu rằng “từ ngữ ‘Tâm thanh tịnh’ chỉ áp dụng cho Cận hành định và An chỉ định”, tác giả lại giới thiệu quan điểm là ‘sát na định được bao gồm trong Cận hành định”.

Độc giả sẽ lưu ý rằng theo đoạn văn trích ở 3 (a) và 4 (b) ở trên, sát na định không thể được bao gồm trong cận hành định. Sát na định cho chúng ta thấy ở đấy một cách xác định và trong ngôn ngữ bình dị, khởi lên sau khi chứng thiền trong khoảnh khắc xác thực của thực hành quán được thực hiện bởi người vừa xuất thiền (jhāna).

Về vấn đề này, tác giả trích dẫn trên trang 4 một đoạn văn từ chú giải Visuddhimagga (Thanh tịnh đạo) được ghi lại ở 3 (b) ở trên, để tỏ ra nó có vẻ như là, cái sức mạnh của sát na định đó và tác giả đề cập mà không có nhận thức ngụ ý đó, hoặc không đếm xỉa gì đến nó. Tác giả trích dẫn đoạn văn đó trong phần “giải thích chương liên quan đến niệm hơi thở”. Độc giả biết rằng niệm hơi thở là một đề mục thiền chỉ (samatha). Tác giả quả quyết thuần quán không liên quan gì đến thiền.

Hơn nữa, đoạn văn này từ Paramatthamañjūsā (chú giải Thanh tịnh đạo) không gì khác hơn là bình luận về chính đoạn này trong Thanh tịnh đạo, được ghi lại ở 3 (a) ở trên mà tuyên bố rằng sát na định khởi lên “vào khoảnh khắc xác thực của quán” được thực hiện bởi người chứng thiền mới xuất thiền.

B. Tác giả khẳng định thêm rằng “trong trường hợp của những đề mục bàn đến những phần trong Kinh Niệm xứ về các Oai nghi, Tỉnh giác và Tứ đại, định của người chuyên tâm vào những phần thực hành này dứt khoát sẽ chỉ là sát na định (ekantena khaṇikasamādhi yeva nāma).

Trong việc ủng hộ khẳng định này tác giả không trích dẫn bất cứ nguồn đáng tin cậy nào. Tuy nhiên, chỉ là những khẳng định thì không mang lại sức thuyết phục. Trái lại chúng bị bác bỏ là không đáng quan tâm. Có lẽ điều hữu ích để nhớ ở đây là lời giáo huấn của Đức Phật dạy định được chứng khi đang kinh hành qua lại kéo dài thời gian. Chú giải cho lời giải thích ý này tức là một trong tám thiền chứng (samāpatti). (9)

C. “Sát na định, có khả năng chế ngự các triền cái, cũng có quyền mang tên ‘Cận hành’ và ‘Tâm thanh tịnh”.

Điều này dường như là cố gắng khá nghèo nàn để chống lại cáo buộc rằng phương pháp thiền mới của Miến Điện dựa vào sự chuyển động của bụng không có “Tâm thanh tịnh”.

Thực ra bản dịch một bài pháp xuất bản bằng tiếng Sinhala do U Sujāta Thera thuyết giảng, vị đệ tử người Miến Điện của U Sobhana Mahāthera, gần đây được bổ nhiệm là người đại diện ở Tích Lan, hoàn toàn lờ đi “Tâm thanh tịnh”. Nó cho biết rằng có sáu thanh tịnh này, đó là (1) Kiến thanh tịnh (diṭṭhi-visuddhi), (2) Đoạn nghi thanh tịnh (kaṅkhāvitarana-visuddhi), (3) Tri kiến thanh tịnh hoặc Đạo phi Đạo tri kiến thanh tịnh (maggā-mgagañāṇā (dassana) visuddhi), (4) Hành đạo tri kiến thanh tịnh (paṭipādāñāṇa (dassana) visuddhi); (5) Giới thanh tịnh (sīlavissuddhi), (6) Sinh diệt trí thanh tịnh (udayavyayañāṇavisuddhi).
Sau khi tạo ra thanh tịnh hợp thế, để chuyển nó đến thanh tịnh siêu thế, người ta sẽ tạo ra quán”. (10)
Danh sách này chỉ có sáu thanh tịnh và loại bỏ tâm thanh tịnh mà là chủ đề chính đang được thảo luận ở đây và tri kiến thanh tịnh; giới thanh tịnh đứng đầu được chuyển đến nơi thứ năm; và một thanh tịnh mới “sinh diệt trí thanh tịnh” được đưa vào. Thêm vào sáu thanh tịnh này hai thứ nữa, tức là thanh tịnh hợp thế và thanh tịnh siêu thế được đề cập.

Nhưng mặc dù trong luận đề được thảo luận nơi đây, bảy thanh tịnh được đề cập chính xác theo trình tự thích đáng thì một định nghĩa mới về tâm thanh tịnh lại được đề xuất và điều này được làm một cách tùy tiện.

D. “Và vì nó gần với an chỉ định của thánh đạo, do đó sát na định đó được nói đến với tên ‘Cận hành’ và những đề mục thiền tạo ra sát na định cũng được gọi là ‘những đề mục thiền đưa đến Cận hành định”.

Nhưng “cận hành của an chỉ định thánh đạo” ở trong phạm vi hậu thiền kia mà. Trong khi vẫn khăng khăng ở lại trong phạm vi phi thiền mà tuyên bố là thuần quán, tác giả cố gắng giành lấy những lợi ích của phạm vi thiền và những lợi ích vượt qua nó mà ông ta không được quyền có. Vì tác giả đang bám níu vào một phạm vi quán sát tưởng tượng mà ông ta chỉ có thể mong đợi gặt hái những kết quả tưởng tượng theo cách đó, những kết quả mà không phải trong lĩnh vực hiện thực nhưng chỉ là giả tưởng.

E. “Do đó nên hiểu rằng sát na định, khi có khả năng chế ngự các triền cái, cũng có quyền mang tên ‘cận hành’ và ‘Tâm thanh tịnh”. Ở D nêu trên tác giả thừa nhận là sát na định gần với đạo. Nhưng người ta không đi đến cận hành của đạo để đạt đến ‘Tâm thanh tịnh’. Trái lại ‘Tâm thanh tịnh’ phải đi trước sự tiếp cận với cận hành của đạo vừa cho người có cỗ xe chỉ vừa cho người có cỗ xe thuần quán theo Thanh tịnh đạo ở đầu chương kiến thanh tịnh (diṭṭhivisuddhi). (11)

Người có cỗ xe thuần quán vẫn ở trong loại đó ngay cả sau khi đạt đến trạng thái hoàn hảo. (12)

Người ta chỉ hy vọng rằng phương pháp thiền mới của Miến Điện không khăng khăng thêm rằng khi người có cỗ xe thuần quán đạt đến trạng thái hoàn hảo vẫn không có thiền, vì tất cả người chứng đạo đầu tiên (maggalābhi) đều là những người chứng thiền.

Đức Phật tuyên thuyết rằng chỉ duy nhất người có năm căn (pañcindriya) ít ra ở sức mạnh tối thiểu có thể đạt đến thánh vị (ariyabhūmi) và trong người mà năm căn này vắng mặt hoàn toàn là người ở ngoài rìa (bahiro), đứng giữa đám phàm phu (puthujjanapakkhe ṭhito) (13) và căn thứ năm là định căn (samādhindriya), Đức Phật đã định nghĩa là bốn thiền; và định lực mà bậc thánh vốn có cũng được định nghĩa là bốn thiền (15); và chánh định của bậc thánh bao gồm bốn thiền (16).

F. Nếu không thì “Tâm thanh tịnh’ không thể phát sinh nơi người đã làm cho thuần quán thành cỗ xe, bằng cách chỉ sử dụng Quán, mà không có tạo ra cận hành định hoặc an chỉ định”.

Khi giả định rằng “Tâm thanh tịnh” của người làm thuần quán phát sanh mà không có tạo ra cận hành định hoặc an chỉ định, tác giả đã cố gắng chứng minh nó được cho là phải xảy ra như thế nào.

Trong cố gắng này tác giả đã loại ra ‘Sát na định’ khỏi cái nơi đúng đắn của nó và đã thành công trong việc tạo ra một mớ sương mù hỗn độn mà vị ấy cố gắng làm tan đi với một loạt những luận cứ.

Cuối cùng vị ấy đi đến kết luận được bộc lộ trong câu cuối cùng trong phần về ‘Tâm thanh tịnh’ ở trang 5 trong luận đề của vị ấy và được sao chép ở trên. Nhưng vì tác giả bắt đầu với sự loại bỏ và trong quá trình đó thay đổi bản chất và chức năng của một từ quan trọng đang bàn luận, những luận cứ được suy ra từ lập trường này là không có cơ sở như kết luận của vị ấy. Tuy nhiên, một số luận cứ này được thảo luận trong các đoạn B đến E và được cho thấy cũng không đứng vững được vì những lý do khác. Quả thực, tâm thanh tịnh không thể phát sinh trong người đã làm thuần quán thành cỗ xe bằng cách chỉ sử dụng Quán mà không có tạo ra cận hành định hoặc an chỉ định.

Theo Visuddhimagga quán chỉ bắt đầu sau khi người ta đã được thiết lập trong Giới thanh tịnh (Sīlavisuddhi) và Tâm thanh tịnh (cittavisuddhi). Chúng được so sánh với gốc rễ và năm thanh tịnh gồm có Kiến thanh tịnh (diṭṭhivisuddhi) … được so sánh với thân cây. (17)

Người muốn hoàn thành năm thanh tịnh còn lại, hoặc là người có cỗ xe chỉ, hoặc là người có cỗ xe quán đều bắt đầu thực hiện quán ở Kiến thanh tịnh, bởi vì hai phân đoạn về chỉ và quán này chỉ tự biểu hiện ở thanh tịnh thứ ba, tức là Kiến thanh tịnh và không phải trước đó.

Nhưng ở trang 2 của luận đề này tác giả nói rằng: “Khi Giới thanh tịnh đã được thiết lập, hành giả đã chọn thuần quán làm cỗ xe nên tinh tấn quán sát danh và sắc (nāma-rūpa).

Khi làm như thế, vị ấy nên quán sát theo những tướng của năm thủ uẩn, tức là những tiến trình danh và sắc mà trở nên rõ ràng đối với vị ấy trong dòng tương tục của chính hành giả (ở sáu căn môn của hành giả đó)”. Nếu hành giả theo phương pháp này thì sẽ làm cho chính mình không có khả năng được thiết lập trong Kiến thanh tịnh (diṭṭhivisuddhi). Và P.m rất rõ ràng ở điểm này:

“Bằng cách chỉ có kiến thức đơn độc hành giả không được thiết lập trong Tâm thanh tịnh. Nếu không được thiết lập trong đó thì không thể hoàn thành thanh tịnh cao hơn”, (18) đó là Kiến thanh tịnh.

Theo một chú giải, Tâm thanh tịnh được giải thích là tám thiền chứng đã thuần thục hoàn toàn và là nhân gần của quán. (19)

Giờ đây ai cũng thừa biết rằng một nhân gần luôn luôn đi trước quán và không bao giờ đi sau quán. Một chú giải khác, càng chính xác hơn, nói rằng Tâm thanh tịnh nghĩa là chánh định và chúng ta đã thấy rằng nó được giải thích là bốn thiền. (20)

Nhưng không nơi nào Tâm thanh tịnh được giải thích là sát na định. Khi đối đầu với tình huống này tác giả cố gắng đùn đẩy sát na định vào một vai trò mà không bao giờ thuộc về nó và điều mà không có khả năng làm tròn đối với mỗi thanh tịnh lại có vị thế và chức năng đặc biệt của nó. Chúng không thể được thay thế cho nhau.

----------
Chú Thích

1. P.P.150 (=Vis. Mag. 144) Sukhaṃ gabbhaṃ gaṇhantaṃ paripākaṃ gacchantaṃ tividhaṃ samādhiṃ paripūreti khaṇikasamādhiṃ upacārasamādhiṃ appanā samādhinti.

2. P.P.86. (=Vis. Mag. 85) yā ca appanāsamādhīnaṃ pubbabhāge ekaggatā, ayaṃ upacārasamādhi.

3. P.P.85. (=Vis. Mag. 85) upacārappanāvasena duvidho.

4. PM. 91: Sampayuttadhamme ārammaṇe appento viya pavattatīti vitakko appanā. Tathā hi so ‘‘appanā byappanā’’ti niddiṭṭho. Tappamukhatāvasena pana sabbasmiṃ mahaggatānuttare jhānadhamme appanāti aṭṭhakathāvohāro. Tathā tassa anuppattiṭṭhānabhūte parittajhāne upacāravohāro. Gāmādīnaṃ samīpaṭṭhāne gāmūpacārādisamaññā viyāti āha ‘‘upacārappanāvasena duvidho’’ti.

5. P.P.311-12 (=Vis. Mag 289) Samādahaṃ cittanti paṭhamajjhānādivasena ārammaṇe cittaṃ samaṃ ādahanto samaṃ ṭhapento. Tāni vā pana jhānāni samāpajjitvā vuṭṭhāya jhānasampayuttaṃ cittaṃ khayato vayato sampassato vipassanākkhaṇe lakkhaṇapaṭivedhena uppajjati khaṇikacittekaggatā. Evaṃ uppannāya khaṇikacittekaggatāya vasenapi ārammaṇe cittaṃ samaṃ ādahanto samaṃ ṭhapento ‘‘samādahaṃ cittaṃ assasissāmi passasissāmīti sikkhatī’’ti vuccati.

6. Pm. 278: Khaṇikacittekaggatāti khaṇamattaṭṭhitiko samādhi, sopi hi ārammaṇe nirantaraṃ ekākārena pavattamāno paṭipakkhena anabhibhūto appito viya cittaṃ niccalaṃ ṭhapeti.

7. P.P. 447 (=Vis. Mag-408): Tassa te saddā pākatikacittassāpi pākaṭā honti. Parikammasamādhicittassa pana ativiya pākaṭā.

8. PM. 402: Parikammasamādhicittassāti dibbasotadhātuyā uppādanatthaṃ pādakajjhānaṃ

samāpajjitvā vuṭṭhitassa saddaṃ ārabbha parikammakaraṇavasena pavattakkhaṇikasamādhicittassa.

9. A. III, 30: caṅkamādhigato samādhi ciraṭṭhitiko hoti (Caṅkamādhigato samādhīti caṅkamaṃ adhiṭṭhahantena adhigato aṭṭhannaṃ samāpattīnaṃ aññatarasamādhi. - Mp (Sinh.ed) p. 616). = Chú giải Aṅguttara Nikāya, ấn bản Sinhalese, trang 616.

10. Kanduboda Vipassanā Bhavana Magazine, 1956, p. 32 (Tạp chí thiền quán vùng Kanduboda, 1956, trang 32). 11. Vis. Mag. 587.

12. Vis Mag. 702 (ám chỉ thiền diệt) Ke taṃ samāpajjanti, ke na samāpajjantīti sabbepi puthujjanā, sotāpannā, sakadāgāmino, sukkhavipassakā ca anāgāmino, arahanto na samāpajjanti. Aṭṭhasamāpattilābhino pana anāgāmino, khīṇāsavā ca samāpajjanti.

13. S. V. 202: Imesaṃ kho, bhikkhave, pañcannaṃ indriyānaṃ samattā paripūrattā arahaṃ hoti, tato mudutarehi arahattaphalasacchikiriyāya paṭipanno hoti, tato mudutarehi anāgāmī hoti, tato mudutarehi anāgāmiphalasacchikiriyāya paṭipanno hoti, tato mudutarehi sakadāgāmī hoti, tato mudutarehi sakadāgāmiphalasacchikiriyāya paṭipanno hoti, tato mudutarehi sotāpanno hoti, tato mudutarehi sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanno hoti. Yassa kho, bhikkhave, imāni pañcindriyāni sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ natthi, tamahaṃ bāhiro puthujjanapakkhe ṭhito’ti vadāmī’ti.

14. S.V. 196: Kattha ca, bhikkhave, samādhindriyaṃ daṭṭhabbaṃ Catūsu jhānesu.

15. S.V. 220: yaṃ samādhindriyaṃ taṃ samādhibalaṃ.

16. D.II. 313.
17. Vis. Mag. 443: ettha pana yasmā imāya paññāya khandhāyatanadhātuindriyasaccapaṭiccasamuppādādibhedā dhammā bhūmi. Sīlavisuddhi ceva cittavisuddhi cāti imā dve visuddhiyo mūlaṃ. Diṭṭhivisuddhi, kaṅkhāvitaraṇavisuddhi, maggāmaggañāṇadassanavisuddhi, paṭipadāñāṇadassanavisuddhi, ñāṇadassanavisuddhīti imā pañca visuddhiyo sarīraṃ. Tasmā tesu bhūmibhūtesu dhammesu uggahaparipucchāvasena ñāṇaparicayaṃ katvā mūlabhūtā dve visuddhiyo sampādetvā sarīrabhūtā pañca visuddhiyo sampādentena bhāvetabbā

18. Pm. 744: Na hi kevalena jānanamattena cittavisuddhiyaṃ patiṭṭhito nāma hoti, na ca tattha apatiṭṭhāya uparivisuddhiṃ sampādetuṃ sakkāti

19. Sv. III. 1062: PTS-a I, 127
20. PTS-a. III. 609.

-----------------------

SÁT NA ĐỊNH

A.  Phản Bác - I

Tác Giả: Sayādaw U Ñāṇuttara Agga Mahā Paṇḍita (Miến Điện)

 

Những chữ viết tắt


A = Aṅguttara Nikāya;
AC = Manorathapūraṇī, (chú giải Aṅguttara Nikāya);

ASC = Sāratthamañjūsā, (phụ chú giải Aṅguttara Nikāya);

DSC = Atthasālini, (chú giải Dhammasaṅgaṇī);

M = Majjhima Nikāya;

MC = Papañcasūdanī, (chú giải Majjhima Nikāya);

MSC = (phụ chú giải Majjhima Nikāya);

Ps = Paṭisambhidāmagga;

PsC = Saddhammappakāsinī, (chú giải Paṭisambhidāmagga);

SC = Sāratthappakāsinī, (chú giải Saṃyutta Nikāya);

Vism = Visuddhimagga;

VismC = Paramatthamañjūsā, Mahā Tikā, (chú giải Visuddhimagga).


Quả thực đáng tiếc rằng Ven. Kheminda Thera người Tích Lan có cái nhìn lệch lạc về sát na định và tâm thanh tịnh (xem bài viết của Thera dưới tiêu đề ở trên trong số phát hành tháng 7- 1966 đăng trong World Buddhism). Có phải Thera bị thôi thúc bởi thiên kiến? Nếu thế, ắt hẳn là có hại không những cho chính Thera mà còn cho tất cả những ai trong Phật Pháp (Buddha Sāsana) đang nỗ lực, với lòng nhiệt thành chân chính, để từ bỏ bốn pháp thiên vị và loại trừ tất cả phiền não.

Trong The Progress of Insight (trang 2), Ven. Mahāsī Sayādaw viết “Ám chỉ đến loại người có cỗ xe thuần quán (Suddha-Vipassanā-yānika)’, chú giải Majjhima-Nikāya bình giải về Kinh Dhammadāyāda Sutta trong Majjhima-Nikāya, nói rằng: “Ở đây một số người tiến hành trực tiếp tuệ quán trong năm thủ uẩn có những tướng vô thường v.v… mà không có tu tập Chỉ trước như được đề cập trong phương pháp gọi là “Chỉ đi trước”(Samatha-pubbaṅgamā). (1)

Dĩ nhiên, có ba loại định: sát na định, cận hành định và an chỉ định. Trong đoạn văn trên, có lời phát biểu rõ ràng rằng tuệ quán được thực hiện mà không có tu tập trước cận hành định và an chỉ định, và vì thế tâm thanh tịnh phát sanh theo sát na định.

Ven. Kheminda Thera không để ý đến chú giải này và để cho mình bị dẫn dắt bởi thiên kiến riêng. Nên lưu ý rằng chú giải Majjhima Nikāya không phải là chú giải được viết bằng tiếng Miến Điện. Đó là một chú giải được dịch từ tiếng Sinhala sang tiếng Pāḷi bởi Buddhaghosa cách đây trên 1500 năm. Vì thế phương pháp tuệ quán dựa vào sát na định không phải là mới cũng không phải của Miến Điện. Nó hoàn toàn là phương pháp cổ xưa và thậm chí có thể nói đó là phương pháp cũ của Tích Lan. Nó đã đứng vững trước thử thách của thời gian.

HAI CÁCH QUÁN SÁT

Nếu đoạn văn Chú giải không đủ rõ ràng thì Phụ chú giải của nó sẽ làm sáng tỏ hơn ‘Trong hai cách quán sát. Cái đầu tiên là Chỉ (Samatha) đi trước và cái thứ hai là Quán (Vipassanā) đi trước”. (2)

“Nếu không có tu tập Chỉ trước” thì ngăn trở cận hành định. Nó không loại trừ sát na định, bởi vì Tuệ quán (vipassanā) không thể có nếu không có sát na định”. (2)

Ắt hẳn là hoàn toàn rõ ràng từ Phụ  chú giải này rằng một Suddha-vipassanā-yānika (người có thuần quán làm cỗ xe) quán sát theo cách sát na định mà không có tu tập trước cận hành định và an chỉ định. Chú giải cũng như Phụ chú giải chứng tỏ thêm rằng người có cỗ xe thuần quán có khả năng chứng đạo-quả A la hán(arahatta magga-phala), khiến cho rất rõ ràng rằng tâm thanh tịnh có thể có theo cách sát na định.

Không nên có nghi ngờ điều này vì Chú giải Majjhima Nikāya dựa vào Aṅguttara Nikāya (3). Đoạn kinh liên quan được dịch như sau trong Gradual Sayings (P.T.S). Part II (trang 162).

“Lại nữa, một tỳ kheo tu tập Chỉ có Quán đi trước. Trong người mà tu tập chỉ có quán đi trước sinh ra Đạo. Vị ấy đi theo Đạo đó, làm cho nó lớn mạnh, làm nhiều về nó. Trong người mà khi đi theo, tu tập, làm nhiều về Đạo đó, các kiết sử được từ bỏ, các tùy miên đi đến chấm dứt”.

Chú giải Aṅguttara Nikāya phát biểu: “Có quán đi trước” nghĩa là Quán mà đi trước, đưa đến Chỉ và người mà chủ yếu tu tập Quán bằng cách ấy sinh ra Chỉ’. (4)

Phụ chú giải của Chú giải này phát biểu: “Trong kinh thứ mười, người tu tập Quán có Chỉ đi trước nghĩa là Samatha-yānika (người có cỗ xe Chỉ). Trong người có cỗ xe Chỉ phát sinh trước hết cận hành định hoặc an chỉ định. Định đó là Chỉ (samatha). Kế đó vị ấy tuệ quán vô thường v.v…của Chỉ đó và các pháp tương ưng. Quán này là Quán (vipassanā). Sự tu tập Chỉ đi trước Quán, do đó được nói là ‘người tu tập tuệ quán có Chỉ đi trước”. (5)
“Người tu tập Chỉ có Quán đi trước” nghĩa là Vipassanā-Yānika (người có cỗ xe Quán). Không có tu tập trước Chỉ (samatha), vị ấy tiến hành trực tiếp tuệ quán năm thủ uẩn có những tướng vô thường v.v… “các kiết sử được từ bỏ, các tùy miên đi đến chấm dứt” nghĩa là các kiết sử được từ bỏ theo cách thức tiến triển của Đạo và nhờ đó các tùy miên được chấm dứt”. (5)

Như vậy, Kinh văn Aṅguttara Nikāya, Chú giải và Phụ Chú giải cho thấy rõ ràng rằng một người có cỗ xe quán (Vipassanā-yānika) có thể tiếp tục hành trì trực tiếp các pháp quán mà không có tu tập trước cận hành định và an chỉ định và bằng cách đó có thể tu tập không những Quán trí (Vipassanā ñāṇa) mà còn Đạo-Quả trí (Magga-phala ñāṇa).

Đoạn kinh văn Aṅguttara nêu trên được giải thích trong Paṭisambhidāmagga như vầy: “Như thế nào Chỉ được tu tập có Quán đi trước? Tùy quán vô thường là quán (vipassanā); tùy quán khổ là quán; tùy quán vô ngã là quán. Vào sát na (chứng Đạo), Niết bàn là đối tượng, Chỉ phát sinh. Như vậy Quán đến trước và Chỉ theo sau. Do đó có lời rằng người tu tập Chỉ, có Quán đi trước’. (6)

Đoạn văn  này cũng cho thấy rõ ràng rằng Quán đi trước Chỉ. Tuy nhiên, một câu hỏi có thể được đưa ra rằng Chỉ đó là Quán định (Vipassanā samādhi), Thánh đạo định (Ariya-magga-samādhi) hay là thiền hợp thế định (Lokiya-jhāna-samādhi)? Câu trả lời được tìm thấy trong Chú giải Majjhima Nikāya (Papañca-sūdanī ) và Phụ chú giải.

“Ở đây một số người quán sát năm thủ uẩn có những tướng vô thường v.v…mà không có tu tập trước định (cận hành, an chỉ). Một người quán sát theo cách này đạt đến định (samādhi) vào sát na chứng Đạo, có Niết bàn là đối tượng. Định (đạo) này là Chỉ”. (7)

Phchú giải của Chú  giải này phát biểu: “Sự đạt đến quán trọn vẹn” nghĩa là quán trí đưa đến xuất khởi. “Những gì xảy ra vào sát na đó” nghĩa là Chánh kiến (sammādiṭṭhi) v.v… mà xảy ra vào sát na chứng Đạo. “Vavassagga là đối tượng” nghĩa là có Niết bàn là đối tượng. “Nhất tâm (citta-ekaggatā)” nghĩa là chánh định Đạo (Magga-sammā-samādhi). (8)

Chú giải cũng như Phụ chú giải đề cập ở trên giải thích rõ ràng rằng định tu tập sau quán là Thánh đạo định (Ariya-magga samādhi).

Chú giải Paṭisambhidāmagg phát biểu: “Nhất tâm, nghĩa là do đó cận hành định và an chỉ định phát sinh. Đó là định thâm nhập mà tu tập sau Quán”. (9)

Có vẻ như định này là thiền định hợp thế (Lokiya-jhāna-samādhi) và cận hành định báo trước nó. Nếu đúng là thế, nó sẽ không phù hợp với ý nghĩa được truyền đạt bởi Chú giải Majjhima Nikāya và Phụ chú giải. Cụ thể là sẽ khó nhất trí với những từ “Pháp mà phát sinh vào sát na đó”. Thế nên định trong đoạn văn này phải là Thánh đạo định (Ariya-magga samādhi) mà được tu tập sau quán.

Dù định này được xem là cận hành – an chỉ định hoặc Thánh đạo định, vẫn không có bất đồng trên quan điểm rằng không có định cận hành – an chỉ trước khi tu tập quán. Thế nên thực là rõ ràng không cần phải bàn cải rằng tu tập quán là khả thi khi không có tu tập định trước.

Điều đó cũng rất rõ ràng bởi vì quán có thể được tu tập khi không có tu tập định trước, Tâm thanh tịnh có thể được đạt đến theo cách sát na định.

Ở đầu Diṭṭhi-visuddhi-niddesa của Visuddhi-magga sẽ được thấy “người có cỗ xe thuần quán”. Chữ “thuần” nên được chú ý. Theo chữ này có nghĩa là quán đơn thuần hoặc quán mà không có định trước (trang 680, bản dịch của Bhikkhu Ñāṇamoli).

Trong Paramatthamañjūsā, Mahā Ṭīkā, có lời phát biểu rằng: “Định là một cỗ xe. Người có cỗ xe này là Samatha- yānika (người có cỗ xe Chỉ). Đó là tên dành cho người tu tập quán sau khi thiết lập chính mình trong thiền hoặc gần với thiền”. (10)

(Xin lưu ý là đoạn văn này cho thấy rõ ràng rằng hành giả mà đạt đến Tâm thanh tịnh bằng cận hành định hoặc an chỉ định được biết là người có cỗ xe Chỉ (Samatha- yānika).

Samatha-yānika) tu tập quán sau khi tu tập định trước. Vipassanā-yānika) tiến hành trực tiếp quán mà không có tu tập định trước”; do đó vị ấy được định nghĩa là ‘người có thuần quán trong cỗ xe của vị đó’ và “người có cỗ xe mà không kết hợp với tu tập định, tức là “cận hành định hoặc an chỉ định”. (10)

----------
CHÚ THÍCH

 

1. MC (I,113)Idha pan’ekacco vuttappakāraṃ samathaṃ anuppādetvā’va pañcupādānakkhandhe aniccādīhi vipassati,
2. MSC. (I, 204) Tattha paṭhamo samathayānikassa vasena vutto, dutiyo vipassanāyānikassa. Samathaṃ anuppādetvāvāti avadhāraṇena upacārasamādhiṃ nivatteti, na khaṇikasamādhiṃ. Na hi khaṇikasamādhiṃ vinā vipassanā sambhavati.
3. A. (I.475) Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāveti. Tassa vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni pahīyanti, anusayā byantīhonti.
4. AC. (II.346) Vipassanāpubbaṅgamanti vipassanaṃ pubbaṅgamaṃ purecārikaṃ katvā samathaṃ bhāveti, pakatiyā vipassanālābhī vipassanāya ṭhatvā samādhiṃ uppādetīti attho.

5. ASC. (II. 344) Dasame samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāvetīti idaṃ samathayānikassa vasena vuttaṃ. So hi paṭhamaṃ upacārasamādhiṃ vā appanāsamādhiṃ vā uppādeti, ayaṃ samatho. So tañca taṃsampayutte ca dhamme aniccādīhi vipassati, ayaṃ vipassanā, iti paṭhamaṃ samatho, pacchā vipassanā. Tena vuccati ‘‘samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāvetī’’ti. Vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāvetīti idaṃ pana vipassanāyānikassa vasena vuttaṃ. So taṃ vuttappakāraṃ samathaṃ asampādetvā pañcupādānakkhandhe aniccādīhi vipassati. .. Saṃyojanāni pahīyanti. Anusayā byantī hontīti maggappaṭipāṭiyā pahīyanti byantī honti.

6. Ps. (287) Kathaṃ vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāveti? Aniccato anupassanaṭṭhena vipassanā, dukkhato anupassanaṭṭhena vipassanā, anattato anupassanaṭṭhena vipassanā. Tattha jātānaṃ dhammānañca vosaggārammaṇatā cittassa ekaggatā avikkhepo. Samādhi iti paṭhamaṃ vipassanā, pacchā samatho. Tena vuccati – “vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāvetī”ti. (Yuganaddhakathā)
7. MC, (I, 113) Idha panekacco vuttappakāraṃ samathaṃ anuppādetvāva pañcupādānakkhandhe aniccādīhi vipassati, ayaṃ vipassanā. Tassa vipassanāpāripūriyā tattha jātānaṃ dhammānaṃ vossaggārammaṇato uppajjati cittassa ekaggatā, ayaṃ samatho.
8. MSC. (I,204) Vipassanāpāripūriyā’ti vipassanāya paripuṇṇatāya vuṭṭhānagāminibhāvappattiyā. Tatthajātānant’i tasmiṃ ariyamaggakkhaṇe uppannānaṃ sammādiṭṭhiādīnaṃ dhammānaṃ. Niddhāraṇe cetaṃ sāmivacanaṃ. Vavassaggārammaṇato’ti vavassaggassa ārammaṇatāya. Vavassaggo vossaggo paṭinissaggoti ca apavaggoti ca atthato ekaṃ, nibbānanti vuttaṃ hoti, tasmā nibbānassa ārammaṇakaraṇenā’ti attho. Cittassa ekaggatā’ti maggasammāsamādhim’āha.

9. PsC (II, 188) yo cittassa ekaggatāsaṅkhāto upacārappanābhedo avikkhepo, so samādhī’ti vipassanāto pacchā uppādito nibbedhabhāgiyo samādhi niddiṭṭho hoti.

10. VismC (II,350) samathova yānaṃ samathayānaṃ, taṃ etassa atthīti samathayāniko. Jhāne, jhānūpacāre vā patiṭṭhāya vipassanaṃ anuyuñjantass’etaṃ nāmaṃ, (Ibid 351) samathayānikassa samathamukhena vipassanābhiniveso, vipassanāyānikassa pana samathaṃ anissāyā’ti āha ‘‘suddhavipassanāyāniko’’ti, samathabhāvanāya amissitavipassanāyānavā’ti attho.

-----------
Thư gửi Chủ bút

 

TÂM THANH TỊNH

 

Về bài đăng trong số phát hành vào tháng bảy, 1966 ca ông với chủ đề “Sát na định và Tâm thanh tịnh” của Ven. Kheminda Thera, tôi lấy làm ngạc nhiên tìm thấy một Thera uyên bác kinh điển như Ven. Kheminda lại có ý tưởng ủng hộ cái quan điểm rằng sự chứng đạt thiền là điều kiện tiên quyết tuyệt đối để đưa đến thành công trong Quán (Vipassanā).

Nếu khẳng định này của vị ấy là đúng, sẽ không có những thành ngữ trong ngôn ng Pāḷi như Vipassanā-yānika (người có cỗ xe quán) or sukkha-vipassaka (người quán khô) or Suddha-vipassanā-yānika (hoặc người có cỗ xe thuần quán), mà có nghĩa là sự chứng đạt do nhờ Quán của Thánh đạo (Đạo siêu thế) trực tiếp mà không có đi xuyên qua bất cứ trạng thái thiền nào.

Trong khi có thể là theo thường tình với phần lớn các hành giả có thói quen “phát triển tâm” phải đi xuyên qua thiền (Jhāna) trên đường từ trạng thái phàm phu (Puthujjana) đến Quán (Vipassanā), thực tế cho thấy một số đạt đến Quán và trạng thái cuối cùng của giác ngộ (Bodhi) trực tiếp cũng phải được chấp nhận.

Tôi đã có dịp thảo luận chủ đề trên với một vài Mahā Thera cao cấp, các ngài đã nói rằng người ta có thể an toàn loại ra các thiền trong vài trường hợp để đạt đến sự chứng Đạo. Ngoài ra, điều đáng quan tâm khi biết rẳng Shwe Zan Aung trong dịch phẩm Compendium of Philosophy (Pāḷi Text Society, 1910) ở trang 55, đã nhận xét đáng chú ý rằng: “Điều cần phải ghi nhớ là thiền (Jhāna) không tuyệt đối cần thiết cho việc chứng quả A la hán”.

Bất kể hành trình đến giác ngộ là xuyên qua Samatha-Vipassanā-yuganaddha (thiền kết hợp chỉ –quán) hoặc trực tiếp xuyên qua Quán, Tâm thanh tịnh vẫn là cần thiết. Sati (niệm) là chung cho tất cả sự phát triển tâm cho Chỉ cũng như cho Quán. Trong khi những từ ng Cận hành (Upacāra) và An chỉ (Appanā) được dùng liên quan với Chỉ, thì từ Sát na (Khaṇika) được dùng liên quan với Quán. Vào lúc những trạng thái định (Samādhi) này được đạt đến thì tâm được thanh tịnh.

Về sự phản đối với cách dùng từ sát na định (Khaṇika-samādhi) như là một loại Cận hành định (Upacāra-samādhi), sự phản đối, theo lý thuyết ngữ nghĩa dường như là hợp lý, nhưng nói theo thực tiễn thì vô lý. Chắc như vậy, vì cần có một trạng thái ‘cận hành’ trước ‘an chỉ’ để vào Đạo siêu thế (Lokuttarā Path). Upacāra (cận hành) có thể được dùng theo nghĩa chung đó. Thực rõ ràng trong ý nghĩa này mà Ven. Mahāsī Sayādaw đã dùng từ sát na định trong The Progress of Insight của Ngài.

R.L. Soni,

Chủ tịch trung tâm W.F.B, Mandalay, Myanmar.

------------
SÁT NA ĐỊNH

A.  Phản bác II

Tác giả: Sayādaw U Ñāṇuttara Agga Mahā Paṇḍita (Miến Điện)


Những chữ viết tắt


A = AṅguttaraNikāya;
AC = Manorathapūraṇi, (chú giải Aṅguttara Nikāya)

ASC = Sāratthamañjūsa, (phụ chú giải Aṅguttara Nikāya)
DhC = Atthasālinī, (chú giải Dhammasaṅganī )
M = MajjhimaNikāya;
MC = Papañcasūdanī, (chú giải Majjhima Nikāya);

MSC = (phụ chú giải Majjhima Nikāya);
Ps = Paṭisambhidāmagga;
PsC = Saddhammappakāsinī,
(chú giải Paṭisambhidāmagga);

SC = Sāratthappakāsinī, chú giải Saṃyutta Nikāya
Vism = Visuddhimagga;
VismC = Paramatthamañjūsā, Mahā Ṭīkā, (chú giải Visuddhimagga).

Các đoạn văn liên quan trích dẫn từ các kinh điển Pāḷi, các Chú giải và Phụ chú giải đã cho thấy rất rõ ràng rằng có hai loại hành giả: (1) Samatha-yānika and (2) Vipassanā-yānika. Người mà chủ yếu tu tập định cận hành – an chỉ là Samatha-yānika.

Hành giả tiến hành trực tiếp tuệ quán mà không có tu tập trước định đã đề cập được gọi là Vipassanā-yānika.

Giờ đây cần phải xem xét loại định nào mà Vipassanā-yānika dựa vào. Vị ấy dựa vào sát na định là điều hoàn toàn rõ ràng. Đó là lý do tại sao Phụ chú giải Papañca-sūdanī phát biểu “Sự tuệ quán Vipassanā không khả thi nếu không có sát na định” (2)

Liên quan đến vấn đề này, lời xác chứng nổi tiếng nhất là trích đoạn bên dưới từ Paramatthamañjusā, Mahā Ṭīkā, Nidānādikathāvaṇṇanā

Sự chứng đắc Pháp siêu thế (tức là Đạo - Quả- Niết bàn) không bao giờ khả thi đối với một Samatha-yānika nếu không có cận hành – an chỉ định, không bao giờ khả thi đối với một Vipassanā-yānika nếu không có sát na định và không bao giờ khả thi đối với cả hai nếu không có tuệ quán ba tướng vô thường, khổ và vô ngã - tam giải thoát môn. (11)

Đoạn văn này phát biểu hết sức rõ ràng rằng không thể có sự chứng ngộ Đạo – Quả - Niết bàn nào (Magga-phala-Nibbāna) là khả thi đối với một Vipassanā-yānika nếu không có sát na định và một Vipassanā-yānika tu tập quán theo cách sát na định.

Dựa vào nguồn đáng tin cậy là kinh văn Aṅguttara Nikāya, các Chú giải và các Phụ chú giải Tích Lan cũng như chú giải của Dhammapāla, người Nam Ấn, Ven. Mahāsī Sayādaw viết: “Người bắt đầu với cận hành định, an chỉ định là Samatha-yānika và người tiến hành tuệ quán mà không có hai định này là Vipassanā-yānika”.

Trong hai loại này, Vipassanā-yānika có sát na định và do đó chứng đạt Tâm thanh tịnh.

Ngài hoàn toàn ý thức rằng trong Visuddhimagga từ ngữ “ Tâm thanh tịnh” chỉ áp dụng cho định và an chỉ định.

Tuy nhiên, không có phản đối định nghĩa này, ngài diễn tả quan điểm rằng sát na định có thể chế ngự các triền cái và trích dẫn nguồn đáng tin cậy là Visuddhimagga để cho thấy rằng sát na định được nói đến bằng tên gọi ‘Cận hành’ trong chương đề cập đến Tâm thanh tịnh. Ngài cũng trích dẫn nguồn đáng tin cậy là chú giải Satipaṭṭhāna Sutta (Kinh Niệm xứ) để giải thích điều này. Việc một Vipassanā-yānika có thể chứng đạt Tâm thanh tịnh đã được đề cập tóm lược trong The Progress of Insigh, cùng với những kinh nghiệm thực tiễn của những hành giả.

Đáng tiếc thay

Ven. Mahāsī Sayādaw nhờ có trợ lực không những của các Chú giải Tích Lan v.v.. mà còn có trợ lực của những kinh nghiệm thực tiễn của các hành giả, với thiện chí nhiệt thành, ngài đã viết một luận đề nêu trên về thiền Phật giáo. Thực là điều đáng tiếc sâu sắc vì rằng Ven. Kheminda Thera, rõ ràng không có cẩn trọng đào sâu vào các kinh điển Pāḷi, các Chú giải và các Phụ chú giải, cứ múa bút vô tội vạ khi diễn tả những điều Thera có thiên kiến bằng cách gán cho phương pháp Suddha-Vipassanā-yānika là phương pháp thiền mới của Miến Điện.

Rủi thay cáo buộc này chống lại tác giả (Mahāsi Sayadaw) lại không giáng đòn vào ngài nhưng giáng vào Đức Phật, Ven. Ānandā, kinh Yuganaddha của Aṅguttara Nikāya, các nhà Chú giải và các nhà Phụ chú giải của Tích Lan, cũng như giáng vào nhà chú giải Dhammapāla, Nam Ấn. Tại sao? Bởi vì trong Kinh Niệm xứ (Satipaṭṭhāna Sutta) Đức Phật cam đoan rằng hành giả có thể chứng đạt A la hán quả bằng cách tùy quán bất cứ đề mục nào được diễn tả trong hai mươi mốt phần.

Các phần thực hành về các Oai nghi và Tỉnh giác của quán Thân, Thọ, Tâm và năm loại quán Pháp không đưa đến Cận hành định và  An chỉ định trong bốn mươi đề mục thiền được đề cập trong Visuddhimagga.

Tuy vậy, việc Tâm thanh tịnh có thể được chứng đạt theo các phần thực hành về chín đề mục thiền này đã được phát biểu dứt khoát trong các kinh văn Pāḷi, các Chú giải và các Phụ chú giải. Các nguồn này cũng giải thích Vipassanā-yānika so với Samatha-yānika.

Xin lặp lại rằng Chú giải Visuddhimagga phát biểu dứt khoát rằng sự chứng ngộ Đạo- Quả - Niết bàn (Magga-phala-Nibbāna) không khả thi đối với một Vipassanā-yānika nếu không có sát na định. (11)

Ven. Kheminda Thera khẳng định rằng người ta không thể đạt đến trạng thái hoàn hảo nếu không có thiền (jhāna). Liên quan đến điều này, Thera nên xem lại kinh thứ tám, Mudutara Vagga, Indriya Saṃyutta, Mahāvagga. Trong kinh đó, Đức Phật tuyên thuyết rằng người có các căn siêu thế (12) chứng ngộ  A la hán quả, người có ít hơn chứng ngộ A na hàm, người có sức mạnh tối thiểu chứng ngộ Dự lưu. Đức Phật không dạy rằng duy nhất những ai chứng đạt thiền hợp thế (Lokiya-jhāna) mới có thể chứng đạt định căn (Samādhindriya) và cũng không dạy duy nhất những người chứng thiền (jhāna) mới có thể đạt đến các Thánh vị (Ariyabhūmi). Thực rõ ràng, kinh này mà Ven. Kheminda Thera trích dẫn không ủng hộ lập luận của vị ấy.

Trong kinh đó, Đức Phật tuyên thuyết rằng nơi người mà năm căn siêu thế vắng mặt vẫn là phàm phu (Puthujjana). Nghĩa là người chứng thiền hợp thế như Ālāra and Uddaka, những người chứng thiền có thần thông (Jhāna-abhiññā) như Devadatta và Sunakkhatta vẫn là các phàm phu bởi vì các căn siêu thế không có nơi họ. Kinh này không loại trừ Suddha-Vipassanā-yānika. Một Suddha-Vipassanā-yānika chắc chắn có khả năng chứng ngộ cho đến Đạo quả A la hán như Cakkhupāla Thera.

Đó là lý do tại sao có lời phát biểu như vầy trong Visuddhimagga cũng như trong chú giải Dhammasaṅgani (Aṭṭhasālini):

“Do quán chi phối, đạo đã phát sinh nơi hành giả thuần quán (quán khô) và đạo đã phát sanh nơi hành giả không làm cho thiền thành căn bản cho quán và đạo được khiến cho phát sinh do quán sát các hành không liên quan sau khi dùng thiền thứ nhất làm căn bản cho quán là những đạo của thiền thứ nhất duy nhất”. (13)

“Đạo đã phát sinh nơi hành giả quán khô do quán quyết định và đạo đã phát sinh không có tạo nên căn bản là thiền nơi hành giả đã chứng thiền và đạo được sinh ra bằng cách tạo nên căn bản là thiền thứ nhất và quán sát các pháp hành cá biệt (tức là khác hơn thiền căn bản) là những đạo thuộc về thiền thứ nhất”. (Aṭṭhasālinī, the Expositor II, Maung Tin dịch, trang 307). (14)

Thiền thứ nhất

Những trích đoạn này được dẫn ra để chứng minh rằng đạo đã phát sinh nơi hành giả thuần quán dứt khoát là đạo của thiền thứ nhất.

Vị ấy không có thiền hợp thế (Lokiya-jhāna) khi vị ấy đang thực hành quán nhưng vị ấy có được thiền siêu thế (Lokuttarā-jhāna) vào lúc đắc đạo. Hầu như không cần thiết để nêu ra rằng vị ấy đạt đến định căn, một trong năm căn siêu thế. Sukkha-vipassaka nghĩa là Suddha-Vipassanā-yānika (người có cỗ xe thuần quán) mà không có thiền, được giải thích trong paramatthamañjūsā. (15)

Liên quan đến những tùy quán về các Oai nghi, Tỉnh giác, và Tứ đại, Ven. Mahāsī Sayādaw nói rằng định của người chuyên tâm vào những phần thực hành này sẽ dứt khoát chỉ là sát na định. Ven. Kheminda Thera nói rằng Ven. Mahāsī Sayādaw không trích dẫn bất cứ nguồn đáng tin cậy nào. 
Visuddhimagga có lời phát biểu: “Khi vị ấy nỗ lực theo cách này chẳng bao lâu định phát sinh nơi vị ấy mà được củng cố bằng trí tuệ soi sáng việc phân tích tứ đại và nó chỉ là cận hành và không đạt đến an chỉ bởi vì nó có các pháp tự tính làm đối tượng (Bhikkhu Ñāṇamoli dịch, trang 385, đoạn 42). (16)

Một câu hỏi phát sinh việc cận hành định phát sinh nơi người quán sát tứ đại là cận hành định thực sự hay không.

Paramatthamañjūsā, chú giải Visuddhimagga có lời phát biểu: “Cận hành định nên được hiểu như một từ ngữ thông dụng. Bởi vì định mà tu tập gần với thiền là cận hành định và ở đây không có thiền. Tuy nhiên vì cùng đặc tính như cận hành định thực, cho nên nó được gọi là cận hành định”. (17)

(Xin lưu ý cùng đặc tính nghĩa là nó có thể chế ngự các triền cái).

Đoạn văn này rõ ràng ủng hộ quan điểm rằng định này được gọi là cận hành định trong trường hợp quán sát mà không thể đưa đến an chỉ định là không thực nhưng chỉ là từ ngữ thông dụng.

Khẳng định của Ven. Kheminda Thera cho rằng sát na định hiện khởi sau khi chứng thiền chắc chắn để chỉ trích phát biểu của Ven. Mahāsī Sayādaw trong The Progress of Insight rằng Suddha-vipassanā-yānika có thể đạt đến sát na định mà không có định cận hành – an chỉ trước.

Nhưng Ven. Kheminda Thera không làm lung lay thế đứng của Ven. Mahāsī Sayādaw vốn được ủng hộ bởi các kinh văn Pāḷi, các Chú giải và các Phụ chú giải, trong đó có lời phát biểu rõ ràng rằng một Samathayānika (người có cỗ xe chỉ) chứng đạt cận hành-an chỉ định và một Vipassanā-yānika (người có cỗ xe quán) chỉ chứng đạt sát na định.

Ven. Mahāsī Sayādaw trích dẫn đoạn văn từ Paramatthamañjūsā, chú giải Visuddhimagga trong phần giải thích chương liên quan đến niệm hơi thở.(xem trang 4 tiếng Anh) và 41 (Pāḷi), the Progress of Insight). Ven. Kheminda Thera nên lưu ý rằng trong trích đoạn này nêu ra tầm quan trọng không phải dành cho thiền (jhāna) nhưng cho sát na định như thể trong trạng thái an chỉ.

Theo những điều đã cân nhắc này, dựa vào các nguồn đáng tin cậy nhất cũng như về những kinh nghiệm thực tiễn của một số lớn hành giả, lời cáo buộc rằng
Tâm thanh tịnh không khả thi theo cách sát na định là không có cơ sở.

Việc Ven. Kheminda Thera bị thôi thúc bởi thiên kiến được cho thấy thêm khi ông đề cập đến bài giảng của U Sujāta, đệ tử người Miến Điện và là đại diện được công nhận ở Tích Lan gần đây của Ven. Mahāsī Sayādaw. Ven. Kheminda Thera đã phê phán U Sujāta dựa vào một bài tường thuật báo chí không hoàn toàn. Để yên vị thiền sư cao cấp như U Sujāta của trung tâm thiền nổi tiếng Thathana Yeiktha, Rangoon do Ven. Mahāsī Sayādaw lãnh đạo, một sa di (sāmaṇera) hoặc thậm chí một hành giả cư sĩ trung bình cũng biết rằng bảy thanh tịnh phải được đề cập theo trình tự thích đáng.

Các kinh văn Pāḷi, các Chú giải và Phụ chú giải đã có lời giải thích cả hai loại Samatha-yānika và Vipassanā-yānika. Cả hai phương pháp chắc chắn là không mới. Chúng đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác kể từ thời của Đức Phật. Ven. Mahāsī Sayādaw viết The Progress of Insight, một luận đề về phương pháp quán (Vipassanā), dựa vào những kinh nghiệm cá nhân của ngài cũng như những kinh nghiệm của một số lớn hành giả, những chứng đạt mà hoàn toàn phù hợp với các nguồn kinh văn, các Chú giải và các Phụ chú giải đáng tin cậy nhất.

Phương pháp này không phải do Ven. Mahāsī Sayādaw mới phát minh ra. Dĩ nhiên quán (Vipassanā) là quán sát về năm uẩn. Các đệ tử được ngài dạy quán niệm, nếu có thể, ở mỗi sự sinh khởi nơi sáu căn môn.Tuy nhiên, ban đầu các hành giả được hướng dẫn tập trung vào tứ đại, đặc biệt là vào những chuyển động phồng và xẹp của bụng mà là những chuyển động của nguyên tố gió (Vāyo-dhātu: phong đại). Nguyên tố này cũng là thành phần của năm uẩn, phương pháp mà ngài áp dụng chắc chắn không mới. Nhân tiện cũng xin nói thêm là một số đệ tử của ngài cũng chứng đạt thiền (jhāna).

Tóm lại, tôi xin bày tỏ lòng ước mong tha thiết rằng Ven. Kheminda Thera và những người cùng nhóm không nên hài lòng với kiến thức đơn độc về phương pháp Samatha-yānika nhưng thay vì thế hãy thực hành chuyên cần cho đến khi quý vị chứng thiền cùng với thông (abhiññā), cũng như thánh vị (ariyabhūm)i. Cầu mong những nỗ lực của các vị mang đến thành công mỹ mãn.

----------
CHÚ THÍCH

11 VismC. (I,15) Samathayānikassa hi upacārappanāppabhedaṃ samādhiṃ, itarassa khaṇikasamādhiṃ, ubhayesampi vimokkhamukhattayaṃ vinā na kadācipi lokuttarādhigamo sambhavati. (Nidānādi-kathā-vaṇṇanā).

(12) SC. (III, 268) Imasmiṃ sutte lokuttarān’eva indriyāni kathitāni (Mudutaravagga, aṭṭhama-sutta-vaṇṇanā).
(13) Vism (ii, 305)
vipassanāniyamena hi sukkhavipassakassa uppannamaggopi, samāpattilābhino jhānaṃ pādakaṃ akatvā uppannamaggopi, paṭhamajjhānaṃ pādakaṃ katvā pakiṇṇakasaṅkhāre sammasitvā uppāditamaggopi paṭhamajjhānikā’va honti.
(14) DhC (272) same as above, except pathamajjhāniko'va hoti. (giống như 13, trừ ra pathamajjhāniko'va).
(15) VismC (II,474) Ajhānalābhī suddhavipassanāyāniko’va sukkhavipassako.
(16) Vism (I, 347) Tass’evaṃ vāyamamānassa nacireneva dhātuppabhedāvabhāsanapaññāpariggahito sabhāvadhammārammaṇattā appanaṃ appatto upacāramatto samādhi uppajjati.

Upacārasamādhī’ti ca ruḷhīvasena veditabbaṃ. Appanaṃ hi upecca cārī samādhi upacārasamādhi, appanā c’ettha n’atthi. Tādisassa pana samādhissa samānalakkhaṇatāya evaṃ vuttaṃ.

(Ghi chú: những quyển và trang đề cập đến ấn bản 6th Saṅgāyanā).


-----------------------
SÁT NA ĐỊNH

Đáp Trả Phần Phản Bác 1-1

Tác giả: Kheminda Thera (Tích Lan)


Nhắc đến bài viết của tôi về chủ đề nêu trên xuất hiện trong số báo tháng Bảy của tờ World Buddhism năm ngoái, Ven. Agga Mahā Paṇḍita Ñānuttara Sayādaw trong phần ‘Phản bác I’ xuất hiện trong số báo tháng mười một vừa qua, hỏi Tôi “có bị thôi thúc bởi thiên kiến hay không” và tiếp tục nói: “Nếu đúng thế, ắt hẳn là có hại không những cho chính KhemindaThera mà còn cho những ai trong Phật Pháp (Buddha Sāsana) đang nỗ lực, với lòng nhiệt thành chân chính, để từ bỏ bốn pháp thiên vị (agati) và loại trừ tất cả phiền não”.

Tôi có thể cam đoan với Ven. Ñānuttara rằng tôi chắc chắn bị thôi thúc, không phải bởi thiên kiến như vị ấy lo ngại, nhưng bởi sự chỉ giáo của Đức Phật nêu ra trong Mahāpadesa Sutta của Aṅguttara Nikāya và kể cả Mahāparinibbāna Sutta và để cho thuận tiện tham khảo, tôi xin trích dẫn những đoạn kinh văn liên quan: “Này chư tỳ kheo, ở đây, một tỳ kheo có thể nói như vầy: ‘Mặt đối mặt với Thế Tôn, này hiền giả, tôi đã nghe, mặt đối mặt với Thế Tôn tôi đã thọ trì điều này. Đây là Pháp, đây là Luật, đây là giáo huấn của bậc Đạo sư”.

"Này chư tỳ kheo, lời nói của tỳ kheo đó không nên chào đón cũng không nên chỉ trích. Không chào đón, không chỉ trích, mỗi từ, mỗi vần nên được nghiên cứu, nên đặt trước Kinh và so sánh với Luật. Khi đặt cạnh Kinh và so sánh với Luật, nếu chúng không khớp với Kinh, cũng không phù hợp với Luật, các ông nên đi đến kết luận: “Thực vậy, đây không phải lời của Thế Tôn và tỳ kheo đó đã thọ trì sai lạc”. Này chư tỳ kheo, như vậy các ông nên loại bỏ nó. Nếu chúng khớp với Kinh và phù hợp với Luật, lúc đó các ông nên đi đến kết luận: “Thực vậy, đây là lời của Thế Tôn và tỳ kheo đó đã thọ trì đúng đắn”. Này chư tỳ kheo, hãy hiểu đây là viện dẫn thẩm quyền trọng đại thứ nhất.
“Lại nữa, này chư tỳ kheo, một tỳ kheo có thể nói: “Trong một trú xứ nọ nơi chư tỳ kheo Tăng sống, có bậc trưởng lão, bậc lãnh đạo. Mặt đối mặt với chư tỳ kheo Tăng tôi đã nghe, đã thọ trì. Đây là Pháp, đây là Luật, đây là giáo huấn của bậc đạo sư”. Lời nói của tỳ kheo đó không nên chào đón cũng không nên chỉ trích … Này chư tỳ kheo, hãy hiểu đây là viện dẫn thẩm quyền trọng đại thứ hai.

Lại nữa, này chư tỳ kheo, một tỳ kheo có thể nói: “Trong một trú xứ nọ nơi nhiều tỳ kheo trưởng thượng sống, có kiến thức lớn, đã thông thạo truyền thống, những người trì Pháp, những người trì Luật, những người trì các mẫu đề.

Mặt đối mặt với các trưởng lão này tôi đã nghe, đã thọ trì. Đây là Pháp, đây là Luật, đây là giáo huấn của bậc đạo sư”. Lời nói của tỳ kheo đó không nên chào đón cũng không nên chỉ trích … Này chư tỳ kheo, hãy hiểu đây là viện dẫn thẩm quyền trọng đại thứ ba.

Lại nữa, này chư tỳ kheo, một tỳ kheo có thể nói: “Trong một trú xứ nọ nơi nhiều tỳ kheo trưởng thượng sống, có kiến thức lớn, đã thông thạo truyền thống, những người trì Pháp, những người trì Luật, những người trì các mẫu đề. Mặt đối mặt với các trưởng lão này tôi đã nghe, đã thọ trì. Đây là Pháp, đây là Luật, đây là giáo huấn của bậc đạo sư’. Lời nói của tỳ kheo đó không nên chào đón cũng không nên chỉ trích. Không nên chào đón, không nên chỉ trích, mỗi từ và vần nên khéo nghiên cứu, nên đặt cạnh Kinh và so sánh với Luật. Khi đặt cạnh Kinh và so sánh với Luật. Nếu chúng không khớp với Kinh, cũng không phù hợp với Luật, các ông nên đi đến kết luận: “Thực vậy, đây không phải lời của Thế Tôn và trưởng lão đó đã thọ trì sai lạc”. Này chư tỳ kheo, như vậy các ông nên loại bỏ nó. Nếu chúng khớp với Kinh và phù hợp với Luật, lúc đó các ông nên đi đến kết luận: “Thực vậy, đây là lời của Thế Tôn và trưởng lão đó đã thọ trì đúng đắn”. Này chư tỳ kheo, hãy hiểu đây là viện dẫn thẩm quyền trọng đại thứ tư. (1)

Vì thẩm quyền tối thượng về Pháp được giáo truyền trong các Kinh bởi chính Thế Tôn, trước khi quyết định bất cứ phương thức quán sát nào, dù cổ xưa hoặc hiện đại, mà quả quyết đưa người thực hành đến diệt khổ, chúng ta hãy ngừng một lúc để xem xét những gì mà các Kinh dạy về chủ đề đó. Chính là với mục đích trợ giúp người đọc đi đến kết luận phù hợp với những hướng dẫn của Đức Phật mà các kinh văn thích hợp cùng với các chú giải được nêu ra bên dưới:

1. (a) Khi trả lời câu hỏi của du sĩ Uttiya “Có phải toàn thể thế giới, hoặc nửa thế giới, hoặc 1/3 thế giới chứng ngộ Niết bàn?” Ven. Ānandā Thera nói rằng giống như người gác cửa sáng suốt không quan tâm đến vấn đề bao nhiêu người vào thành phố, nhưng biết rằng bất cứ ai vào thành phố đều làm một việc là đi qua lối vào duy nhất, cũng thế Đức Như Lai chỉ quan tâm đến Niết bàn được chứng ngộ như thế nào và không quan tâm đến vấn đề có bao nhiêu chứng ngộ Niết bàn.

Ven. Ānandā Thera tiếp tục : “Bất cứ ai đã đã đi ra, đang đi ra hoặc sẽ đi ra khỏi thế giới này (đến Niết bàn), tất cả trong số đó đã làm như thế (đang làm như thế hoặc sẽ làm như thế) bằng cách từ bỏ năm triền cái (pañca nīvaraṇe pahāya), những ô nhiễm của tâm mà làm suy yếu trí tuệ (cetaso upakkilese paññāya dubbalikaraṇe), khiến cho những tư tưởng của họ được khéo thiết lập trong tứ niệm xứ (catūsusatipaṭṭhānesu suppatiṭṭhitacittā) và sau khi tu tập như thực thất giác chi”. (2)

(b) Có thể nói là, khi nhấn mạnh phát biểu này của Ven. Ānandā Thera, Ven Sāriputta Thera thưa với Đức Phật qua cái trí y theo Pháp rằng “Tất cả bậc Toàn giác trong quá khứ, tương lai và hiện tại, tất cả các bậc đó đều thực chứng sự toàn giác bằng cách từ bỏ năm triền cái, những ô nhiễm của tâm mà làm suy yếu trí tuệ, khiến cho những tư tưởng được khéo thiết lập trong tứ niệm xứ và sau khi tu tập như thực thất giác chi”. (3)

Và Ngài Sāriputta lặp lại phát biểu này trong hai trường hợp khác, đó là, Satipaṭṭhāna Saṃyutta và trong Mahāparinibbāna Sutta. (4)

Ở hai trường hợp đầu tiên, Đức Phật phân tích những lời có tầm quan trọng này của Dhammasenāpati (bậc tướng quân chánh Pháp), tán dương và khích lệ Ven. Sāriputta Thera, khi dạy rằng: “Lành thay, lành thay, này Sāriputta! Hãy tuyên bố lời dạy này thường xuyên cho các tỳ kheo và tỳ kheo ni, nam và nữ cư sĩ để mà trong số họ nếu có bất cứ kẻ ngu nào mà nghi ngờ và hoang mang về phương pháp giảng dạy của ta, sau khi nghe lời giải bày tỏ tường này, họ có thể từ bỏ những nghi ngờ và hoang mang”. (5)

 (1) Và các chú giải tương ứng giải thích: (i) “Các phiền não của tâm = năm triền cái làm ô nhiễm, làm vấy nhiễm, phiền nhiễu và gây tai hại cho tâm. Do đó chúng được gọi là các phiền não của tâm.

Làm suy yếu trí tuệ = Các triền cái phát sinh cản trở trí tuệ chưa sinh không phát sinh được. Do đó chúng được gọi là những pháp làm suy yếu trí tuệ. (6)

(ii) “Các phiền não của tâm = năm triền cái, tâm bị chướng ngại làm cho ô nhiễm, làm vấy nhiễm, phiền nhiễu, và gây tai hại. Do đó chúng được gọi là các phiền não của tâm”. Làm suy yếu trí tuệ = các triền cái phát sinh cản trở trí tuệ chưa sinh không phát sinh được và không để cho tăng trưởng trí tuệ đã phát sinh. Do đó chúng được gọi là những pháp làm suy yếu trí tuệ.. (7)

Hai chú giải này trình bày tỉ mỉ đến một mức độ nhất định bản chất tai hại gây ra do sự hiện diện của năm triền cái.

Một phát biểu đầy đủ hơn được nêu ra trong chú giải Cūḷahatthipadopama Sutta nói rằng: “Làm suy yếu trí tuệ = năm triền cái phát sinh cản trở sự phát sinh trí tuệ hợp thế và siêu thế; chúng cắt đứt và hủy diệt tám thiền chứng đã phát sinh hoặc năm loại thắng trí. Do đó chúng được gọi là các pháp làm suy yếu trí tuệ”. (8)

Và chú giải thứ hai, Venerable Sāriputta Thera đã khơi gợi cảm xúc nhiều hơn qua tâm thái của những lời tuyên bố và được sự tán thành của Thế Tôn, chú giải này làm sáng tỏ hơn nữa: “Ông nên tuyên bố thường xuyên = Ông nên nói nhiều lần. Nói rằng: “Ta đã nói lời đó vào buổi sáng”, không hạn chế việc nói tiếp tục vào buổi trưa và vân vân. Nói rằng: “Ta đã nói lời đó hôm nay”, không hạn chế việc nói tiếp tục vào ngày hôm sau và vân vân, là ý nghĩa”. (9)

Ta cần phải lưu ý rằng không có ngoại lệ với đòi hỏi này; ngay cả chư Bồ tát toàn giác (Sammāsambodhisatta) tuân theo điều đó bằng cách từ bỏ năm triền cái trước khi tu tập tứ niệm xứ và thất giác chi. Vì rằng năm triền cái, như chúng ta đã thừa biết, làm ô nhiễm, phiền nhiễu và tác hại cho tâm; chúng ngăn sự phát sinh trí tuệ hợp thế và siêu thế; và cắt đứt, hủy diệt mọi thứ đáng cho hành giả tinh tấn vì mục đích tối thượng. Do đó, trừ phi chúng được chế ngự, ít nhất tạm thời, sẽ không có quán trí nào có thể được tu tập.

2. Và sự từ bỏ năm triền cái xảy ra trong thiền thứ nhất theo kinh như vầy: “Này hiền giả, thiền thứ nhất là sự từ bỏ năm chi và có được năm chi. Ở đây, này hiền giả trong vị tỳ kheo đã chứng thiền thứ nhất dục tham được từ bỏ, sân được từ bỏ, hôn trầm - thụy miên được từ bỏ, trạo - hối được từ bỏ, nghi được từ bỏ. Có sự hiện diện của tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm”. (10)

3. Đức Bồ tát bắt đầu quán Pháp dưới cội cây Bồ đề chỉ theo cách này. Sau sáu năm khổ hạnh Bồ tát không tiến gần hơn mục đích khi ngài khởi sự. Ở điểm này, khi nhớ lại kinh nghiệm chứng thiền thứ nhất vào thời thơ ấu dưới bóng cây trâm trong khi phụ hoàng ngài bận rộn lo dự lễ hạ điền, Bồ tát tự hỏi “Đây có thể là con đường đi đến giác ngộ không?” Và ngài đi đến kết luận, “Thực vậy, đây là con đường đi đến giác ngộ”. Sau đó Bồ tát ngồi dưới cội cây Bồ đề và chứng thiền thứ nhất; và tuần tự chứng thiền thứ hai, thứ ba, thứ tư. Trong canh một ngài chứng túc mạng minh, thắng trí nhớ lại các đời sống quá khứ, trong canh giữa chứng sinh tử minh, thắng trí về sự diệt và sinh của chúng sanh và trong canh cuối chứng lậu tận minh, thắng trí về sự tận diệt các lậu hoặc. (11)
-------
CHÚ THÍCH

1. A.II, 168-70, D.II, 124-26: Bhāgavā etadavoca; 'Idha bhikkhave Bhikkhu evaṃ vadeyya. " Sammukhā me taṃ āvuso Bhāgavato sutaṃ sammukhā paṭiggahitaṃ, ayaṃ Dhammo ayaṃ Vinayo idaṃ Satthu sāsanan" ti, tassa bhikkhave bhikkhuno bhāsitaṃ n' eva abhinanditabbaṃ nappaṭikkositabbaṃ. Anabhinanditvā appaṭikkositvā tāni padabyañjanāni sādhukaṃ uggahetvā Sutte otāretabbāni Vinaye sandassetabbāni. Tāni ce Sutte otāriyamānāni Vinaye sandassiyamānāni na c' eva Sutte otaranti na Vinaye sandissanti, niṭṭhaṃ ettha gantabbaṃ: "addhā, idaṃ na c’eva tassa bhagavato vacanaṃ arahato sammāsambuddhassa; imassa ca bhikkhuno duggahitan’ti. Iti h’etaṃ, bhikkhave, chaḍḍeyyātha.Tāni ce sutte otāriyamānāni vinaye sandassiyamānāni sutte c’eva otaranti Vinaye ca sandissanti, niṭṭhaettha gantabbaṃ – ‘addhā, idaṃ tassa bhagavato vacanaṃ arahato sammāsambuddhassa; imassa ca bhikkhuno suggahita’nti. Idaṃ bhikkhave, paṭhamaṃ mahāpadesaṃ dhāreyyātha. 

‘‘Idha pana bhikkhave bhikkhu evaṃ vadeyya – ‘asukasmiṃ nāma āvāse saṅgho viharati sathero sapāmokkho. Tassa me saṅghassa sammukhā sutaṃ sammukhā paṭiggahitaṃ – ayaṃ Dhammo, ayaṃ Vinayo, idaṃ Satthu sāsanan’ti. Tassa bhikkhave bhikkhuno bhāsitaṃ n’eva abhinanditabbaṃ nappaṭikkositabbaṃ…Idaṃ bhikkhave dutiyaṃ mahāpadesaṃ dhāreyyātha. ‘‘Idha pana bhikkhave bhikkhu evaṃ vadeyya – ‘asukasmiṃ nāma āvāse sambahulā therā bhikkhū viharanti bahussutā āgatāgamā dhammadharā vinayadharā mātikādharā. Tesaṃ me therānaṃ sammukhā sutaṃ sammukhā paṭiggahitaṃ – ayaṃ Dhammo, ayaṃ Vinayo, idaṃ Satthu sāsanan’ti. .. Idaṃ bhikkhave tatiyaṃ mahāpadesaṃ dhāreyyātha.

‘‘Idha pana bhikkhave bhikkhu evaṃ vadeyya – ‘asukasmiṃ nāma āvāse eko thero bhikkhu viharati bahussuto āgatāgamo dhammadharo vinayadharo mātikādharo. .. Idaṃ bhikkhave catutthaṃ mahāpadesaṃ dhāreyyātha. Ime kho bhikkhave cattāro mahāpadesā’ti.

2. A.V. 194—95: ‘‘Yaṃ pan’etaṃ bhavaṃ Gotamo abhiññāya sāvakānaṃ dhammaṃ desesi sattānaṃ visuddhiyā sokaparidevānaṃ samatikkamāya dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya ñāyassa adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya, sabbo ca tena loko nīyissati upaḍḍho vā tibhāgo vā’ti. Evaṃ vutte bhagavā tuṇhī ahosi… Atha kho āyasmā ānando uttiyaṃ paribbājakaṃ etadavoca – ‘‘tenah’āvuso uttiya, upamaṃ te karissāmi. .. Tatr’assa dovāriko paṇḍito byatto medhāvī aññātānaṃ nivāretā ñātānaṃ pavesetā. So tassa nagarassa samantā anupariyāyapathaṃ anukkamati. Anupariyāyapathaṃ anukkamamāno na passeyya pākārasandhiṃ vā pākāravivaraṃ vā, antamaso biḷāranikkhamanamattampi. No ca khvassa evaṃ ñāṇaṃ hoti – ‘ettakā pāṇā imaṃ nagaraṃ pavisanti vā nikkhamanti vā’ti. Atha khvassa evaṃ ettha hoti – ‘ye kho keci oḷārikā pāṇā imaṃ nagaraṃ pavisanti vā nikkhamanti vā, sabbe te iminā dvārena pavisanti vā nikkhamanti vā’ti.

‘‘Evaṃ eva kho, āvuso uttiya na tathāgatassa evaṃ ussukkaṃ hoti – ‘sabbo vā tena loko nīyati, upaḍḍho vā, tibhāgo vā’ti. Atha kho evamettha Tathāgatassa hoti – ‘ye kho keci lokamhā nīyiṃsu vā nīyanti vā nīyissanti vā, sabbe te pañca nīvaraṇe pahāya cetaso upakkilese paññāya dubbalīkaraṇe, catūsu satipaṭṭhānesu suppatiṭṭhitacittā satta bojjhaṅge yathābhūtaṃ bhāvetvā. Evaṃ ete lokamhā nīyiṃsu vā nīyanti vā nīyissanti vā’ti.
3.D.III, 101.
4. S.V.160—61; D.II, 83.

5. D.III, 116; S.V 161: Sādhu sādhu, sāriputta Tasmātiha tvaṃ sāriputta imaṃ dhammapariyāyaṃ abhikkhaṇaṃ bhāseyyāsi bhikkhūnaṃ bhikkhunīnaṃ upāsakānaṃ upāsikānaṃ. Yesaṃ pi hi Sāriputta moghapurisānaṃ bhavissati Tathāgate kaṅkhā vā vimati vā tesaṃ pi maṃ dhammapariyāyaṃ sutvā yā tathāgate kaṅkhā vā vimati vā sā pahīyissatīti.
6. Spk. III, 211: Cetaso upakkilese ti pañcanīvaraṇā cittaṃ upakkilissanti, kiliṭṭhaṃ karonti upatāpenti , viheṭhenti. Tasmā cetaso upakkilesā ti vuccanti. Paññāya dubbalīkaraṇe ti nīvaraṇā uppajjamānā anuppannāya paññāya uppajjituṃ na denti, tasmā paññāya dubbalīkaraṇā ti vuccanti.

7. Sv. III, 880—81: Cetaso upakkileseti pañca nīvaraṇāni cittaṃ upakkilesenti kiliṭṭhaṃ karonti upatāpenti vibādhenti, tasmā ‘‘cetaso upakkilesā’’ti vuccanti. Paññāya dubbalīkaraṇeti nīvaraṇā uppajjamānā anuppannāya paññāya uppajjituṃ na denti, uppannāya paññāya vaḍḍhituṃ na denti, tasmā ‘‘paññāya dubbalīkaraṇā’’ti vuccanti.

8. PS.II, 217: Paññāya dubbalīkaraṇe ti ime pañca nīvaraṇā uppajjamānā anuppannāya lokiyalokuttarāya paññāya uppajjituṃ na denti, uppannā api aṭṭha samāpattiyo, pañca vā abhiññā ucchinditvā pātenti; tasmā paññāya dubbalīkaraṇā ti vuccanti.

9. Spk, III, 212: Abhikkhaṇaṃ bhāseyyāsī ti punappunaṃ bhāseyyāsi, ‘pubbaṇhe me kathitan’ ti mā majjhanhikādīsu na kathayittha, ‘ajja vā me kathitan’ti mā paradivasādīsu na kathayitthā ti attho.

10. M.I.294-95: Paṭhamaṃ kho āvuso jhānaṃ pañcaṅgavippahīnaṃ pañcaṅgasamannāgataṃ. Idh’āvuso, paṭhamaṃ jhānaṃ samāpannassa bhikkhuno kāmacchando pahīno hoti, byāpādo pahīno hoti, thīnamiddhaṃ pahīnaṃ hoti, uddhaccakukkuccaṃ pahīnaṃ hoti, vicikicchā pahīnā hoti; vitakko ca vattati, vicāro ca pīti ca sukhañca cittekaggatā ca.

11. M.I. 246-49: Na kho panāhaṃ imāya kaṭukāya dukkarakārikāya adhigacchāmi uttari manussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ siyā nu kho añño maggo bodhāyā’ti. Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi : Abhijānāmi kho panāhaṃ pitu sakkassa kammante sītāya jambucchāyāya nisinno vivicceva kāmehi … paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharitā, siyā nu kho eso maggo bodhāyā’ti. Tassa mayhaṃ aggivessana satānusāri viññāṇaṃ ahosi: eseva maggo bodhāyā’ti. .. so kho ahaṃ aggivessana oḷārikaṃ āhāraṃ āhāretvā balaṃ gahetvā vivicceva kāmehi … paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ. ..dutiyaṃ jhānaṃ… tatiyaṃ jhānaṃ … catutthaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ. …So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte pubbenivāsānussatiñāṇāya cittaṃ abhininnāmesiṃ. .. rattiyā majjhime yāme dutiyā vijjā adhigatā… So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte āsavānaṃ khayañāṇāya cittaṃ abhininnāmesiṃ. .. rattiyā pacchime yāme tatiyā vijjā adhigatā...
---------
Người dịch ghi chú: 

(Spk = Sāratthappakāsinī/chú giải Saṃyutta Nikāya)

(Sv= Sumaṅgalavilāsinī/ chú giải Dīgha Nikāya

(Ps = Papañcasūdani/chú giải Majjhima Nikāya)

------------

SÁT NA ĐỊNH

Đáp Trả Phần Phản Bác I-II

Tác giả: Kheminda Thera (Tích Lan)

 

4. Chúng ta đã thấy rằng chánh định được định nghĩa trong Kinh Đại Niệm xứ (mahāsatipaṭṭhāna Sutta) (12) là bốn thiền, có lời giải thích của chú giải: “Này chư tỳ kheo, đây được gọi là chánh định - trong phần trước là hợp thế, trong phần sau là siêu thế, được gọi là chánh định’. (13)

Và Kinh sau đây cho thấy là không thể đạt đến tri kiến như thực về các pháp nếu không có chánh định. “Này chư tỳ kheo, khi niệm và tỉnh giác không có, trong người mà thiếu niệm và tỉnh giác, duyên tròn đủ trợ giúp hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi bị diệt, khi hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi không có, trong người mà thiếu hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, duyên tròn đủ trợ giúp thu thúc các căn bị diệt, khi không có thu thúc các căn, trong người mà thiếu thu thúc các căn, duyên đầy đủ trợ giúp giới bị diệt; khi không có giới, trong người mà thiếu giới, duyên tròn đủ trợ giúp chánh định bị diệt; khi không có chánh định, trong người mà thiếu chánh định, duyên tròn đủ trợ giúp tri kiến như thực về các pháp bị diệt, khi không có tri kiến như thực về các pháp, trong người mà thiếu tri kiến như thực về các pháp, duyên tròn đủ trợ giúp yếm ly - ly tham bị diệt; khi không có yếm ly- ly tham, trong người mà thiếu yếm ly- ly tham, duyên tròn đủ trợ giúp giải thoát tri kiến bị diệt. Này chư tỳ kheo, cũng như các chồi cây, vỏ cây, giác cây, lõi cây không đi đến toàn hảo trong một cây thiếu nhánh và lá, cũng thế, này các tỳ kheo, khi không có niệm và tỉnh giác, duyên tròn đủ trợ giúp hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi bị diệt…”.

“Khi niệm và tỉnh giác có mặt, người mà có niệm và tỉnh giác, vị ấy có duyên tròn đủ trợ giúp hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi…. Khi có chánh định, người mà có chánh định, vị ấy có duyên tròn đủ trợ giúp tri kiến như thực về các pháp ….Khi có yếm ly - ly tham, người mà có yếm ly - ly tham, vị ấy có duyên tròn đủ trợ giúp giải thoát tri kiến. Này chư tỳ kheo, cũng như các chồi cây, vỏ cây, giác cây, lõi cây đi đến hoàn hảo trong một cây có các nhánh và lá, cũng thế, này chư tỳ kheo, khi có niệm và tỉnh giác, người mà có niệm và tỉnh giác, vị ấy có duyên tròn đủ trợ giúp hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi…” (14)

Đề cập đến ý nghĩa của một kinh trước, chú giải nói rằng: “Duyên tròn đủ bị diệt” = nghĩa là cắt đứt; tri kiến như thực về các pháp = quán yếu; yếm ly – ly tham = quán mạnh cũng như đạo; giải thoát tri kiến = trạng thái giải thoát hoàn hảo (A la hán) và phản khán trí”. (16)

5.Tiến bộ trong Pháp là tuần tự. Do đó Đức Phật dạy: (a) “Này Pahārāda, trong Pháp và Luật này, do học tập tuần tự, do làm phận s tuần tự, và do hành đạo tuần tự mà sự thâm nhập của trí thực sự phát sinh, không phải đến lập tức”. (17)(b) Chú giải có lời giải thích: “Sự thâm nhập của trí thực sự phát sinh, không phải lập tức = từng bước một và không phải theo cách của con ếch đang nhảy, một người tiến bộ trên thánh đạo. Sau khi tròn đủ giới trước hết, kế đến định và sau đó tuệ, người đó chứng đạt thánh vị A la hán trong Phật Pháp”. (18)
Ở đây sự tiến bộ tuần tự này được cho thấy theo một trật tự nhất định mà không phải bị cản trở bằng cách thay đổi trật tự mà đã được quy định trong các kinh hoặc cản trở bằng cách bỏ qua bất cứ chi phần nào. Chẳng hạn, sau khi tu tập giới không thể tu tập tuệ mà bỏ qua định “vì những lời như ‘người có định biết và thấy như thực’ (A. V.3), nhân gần của nó là định”. (19)

Điều này được khéo làm sáng tỏ trong diễn giải kinh sau đây:

6. “Này chư tỳ kheo, giả sử có một vị vua mà có một thành phố biên địa … Một cặp sứ giả nhanh nhẹn đến từ hướng đông hỏi người bảo vệ thành như vầy: “Này bạn, chủ thành này ở đâu?” Người ấy trả lời: “Thưa các vị, đây là người đang ngồi ở giữa ngã tư đường”. Rồi cặp sứ giả nhanh nhẹn, sau khi trình cho vị chủ thành chân đế lệnh đã đi theo con đường họ đến. Cũng vậy một cặp sứ giả nhanh nhẹn đến từ hướng tây, bắc, nam và trình cho vị chủ thành chân đế lệnh và trở về theo con đường họ đến.

Này chư tỳ kheo, đây là ví dụ được ta nêu ra để làm sáng tỏ ý nghĩa; đây là ý nghĩa. Này chư tỳ kheo, ‘Thành phố’ là tên chỉ cho thân này bao gồm tứ đại, sinh từ cha mẹ, sinh trưởng nhờ cơm cháo và sữa chua, thuộc về vô thường, tàn phai, tàn tạ , hủy hoại, hủy diệt. Này chư tỳ kheo, ‘sáu căn môn’ là tên chỉ cho sáu nội xứ. Này chư tỳ kheo ‘Người bảo vệ thành’ là tên chỉ cho niệm. ‘Cặp sứ giả nhanh nhẹn’ là tên chỉ cho chỉ và quán. ‘Chủ thành ’ là tên chỉ cho thức.

‘Ở giữa ngã tư đường’ là tên chỉ cho tứ đại, đất, nước, lửa và gió. ‘Chân đế lệnh’ là tên chỉ cho Niết bàn’. ‘Con đường họ đến’ là tên chỉ cho bát thánh đạo: chánh kiến …chánh định”. (20)
Chú giải mở rộng ví dụ này và áp dụng như sau: ‘… ‘Sáu lối vào’; - các lối vào thành phố … một hoặc hai, hoặc một trăm, hoặc một ngàn. Ở đây, bậc đạo sư nói lên điều này để cho thấy sáu căn môn. ‘Có trí = có trạng thái của bậc thiện trí’. ‘sáng suốt’ = có những gì gọi là trí tuệ lập tức. Hướng đông = ý nghĩa nên được hiểu khi xem xét những gì được nói ban đầu.

Giờ đây trong thành phố tráng lệ. Vị chuyển luân vương có bảy báu, cai trị vương quốc. Vị ấy có một thành phố biên địa không có đại diện hoàng gia. Dân chúng đến nói, “Tâu đại vương, trong thành phố của chúng tôi không có quan chức. Hãy cho chúng tôi một quan chức”. Vua, sau khi cho con trai, nói: “Hãy đi, đưa nó theo các ngươi, hãy làm lễ quán đính nó ở đấy, thành lập các pháp đình v.v…và sinh sống”. Họ đã làm theo. Hoàng tử do kết hợp các bạn ác, trở thành kẻ say rượu, phá hủy tất cả pháp đình v.v…và trải qua thời gian ở giữa thành phố vây quanh là những hạng có ác tâm, vui thích trong việc nhậu nhẹt, múa hát. Dân chúng đến vua và tấu trình về việc đó.Vua ra lệnh cho một đại thần có trí: “Hãy đi và khuyên hoàng tử, khiến nó sửa lại các pháp đình và v.v.. . làm lễ quán đính nó lần nữa và về đây”. “Tâu đại vương, không thể nào khuyên hoàng tử được, hoàng từ tánh tình hung bạo, thậm chí sẽ giết cả tôi”. Rồi vua ra lệnh cho một dũng sĩ : “Ngươi đi cùng vị này; nếu hoàng tử không tuân lệnh hãy cắt đầu nó”. Rồi vị đại thần và dũng sĩ đó vốn là cặp sứ giả nhanh nhẹn, đi đến đấy và hỏi người bảo vệ thành như vầy: “Này bạn, hoàng tử chủ thành này ở đâu?”. “Đấy là người đang ngồi ở giữa ngã tư đường đang nhậu, vây quanh là những kẻ ác tâm và đang hưởng dục”. Bấy giờ cặp sứ giả nhanh nhẹn đi đến đấy và vị đại thần nói: “Thưa chúa công, hãy thiết lập các pháp đình lập tức v.v… và khéo trị vì”.

Hoàng tử ngồi như không nghe. Rồi vị dũng sĩ nắm đầu nói rằng: “Nếu ngài chấp hành lệnh vua, hãy làm như thế; nếu không, ngay trong nơi này ta sẽ cắt đứt đầu ngài” và rút gươm ra. Lập tức tùy tùng ác tâm bỏ chạy tứ tán. Kinh sợ, hoàng tử chấp nhận lệnh vua. Rồi họ quán đính hoàng tử ngay lúc đó, giương lên lọng trắng nói rằng, “Hãy trị vì vương quốc chân chánh, trình chân đế lệnh như lời vua phán truyền và đi theo con đường họ đến. Để làm sáng tỏ ý nghĩa này Thế Tôn nói “Hướng đông” v.v…

“Giờ đây, ví dụ được áp dụng. Như thành phố sáng lạng là thành phố Niết bàn cần phải hiểu như vậy. Như vua chuyển luân có bảy báu là người có thất giác chi. Vua pháp= bậc Chánh Đẳng giác. Như thành phố biên địa là thành phố tự thân. Như hoàng tử ác trong thành phố biên địa là ý nghĩ ác của tỳ kheo này. Như thời gian khi hoàng tử ác có những kẻ ác tâm vây quanh là khi tỳ kheo này có năm triền cái.

Như hai sứ giả nhanh nhẹn là đề mục thiền chỉ và đề mục thiền quán. Như thời gian dũng sĩ nắm lấy đầu là khi tâm được kiềm chế, sau khi làm an tịnh nó, với định thiền thứ nhất phát sanh. Như khoảng thời gian của những kẻ có ác tâm bỏ chạy tứ tán, thời khắc dũng sĩ nắm đầu là khoảng thời gian năm triền cái phân tán chỉ có khi thiền thứ nhất phát sinh.

Như thời gian chấp nhận lời khuyên, nói rằng “Tôi sẽ tuân lệnh vua’ là thời gian xuất thiền. Như giương lên cây lọng trắng của người được họ quán đính ngay lúc đó nên được biết là sự giương lên cây lọng trắng giải thoát của người đạt đến trạng thái A la hán, dựa vào đề mục chỉ và quán”.

“Trong những từ ngữ ‘Này chư tỳ kheo’, ‘thành phố’ là tên cho thân này bao gồm tứ đại” v.v… được cho biết đầy đủ trước đây: Chỉ nơi trú của hoàng tử là thức: trong trường hợp này thân được gọi là thành phố. Chúng là các cửa, sáu xứ là các cửa. Tình trạng thường xuyên được thiết lập trong niệm ở những cửa này được gọi là người bảo vệ thành. Quán sát đề mục chỉ quán theo lệnh vua Pháp là cặp sứ giả nhanh nhẹn. Ở đây ý nghĩa nên được hiểu rằng như dũng sĩ là chỉ (samatha) và như đại thần có trí là quán (vipassanā). ..

Như hoàng tử đó ở giữa thành phố là chỉ - quán đang ngồi ở giữa thân ở ngã tư đường sắc ý vật, được quán đính bởi những sứ giả với trạng thái A la hán, hoàng tử thức quán nên được biết”. (21)

Bao lâu người ta có năm triền cái, là trong một trạng thái tâm không thích hợp, không dễ lĩnh hội, người ta không thể tu tập quán. Do đó trong ví dụ, khi vua yêu cầu đại thần có trí khuyên hoàng tử có ác tâm, vị này từ chối vâng theo nói rằng ông sợ hoàng tử ác giết. Nói cách khác, quán không có cơ hội chút nào bao lâu năm triền cái không được kiềm chế. Chỉ khi nào dũng sĩ thiền thứ nhất làm tán loạn tùy tùng có ác tâm của năm triền cái khi đó hoàng tử thức trong trạng thái tâm thích hợp hoặc tự chủ mới thực hiện sự tu tập quán.

7. Do đó trong Sāmaññaphala Sutta Đức Phật dạy: “Bao lâu năm triền cái này chưa được từ bỏ người ta coi chính mình như mắc nợ, bệnh tật, gông cùm, nô lệ, bị lạc trong con đường sa mạc”. (22)
------------
CHÚ THÍCH


12. D. II. 343.
13. Sv-III, 804: Ayaṃ vuccati, bhikkhave, sammāsamādhīti ayaṃ pubbabhāge lokiyo aparabhāge lokuttaro sammāsamādhīti vuccati.

14. A. IV, 336-47: Satisampajaññe , bhikkhave, asati satisampajaññavipannassa hatūpanisaṃ hoti hirottappaṃ, hirottappe asati hirottappavipannassa hatūpaniso hoti indriyasaṃvaro, indriyasaṃvare asati indriyasaṃvaravipannassa hatūpanisaṃ hoti sīlaṃ, sīle asati sīlavipannassa hatūpaniso hoti sammāsamādhi, sammāsamādhimhi asati sammāsamādhivipannassa hatūpanisaṃ hoti yathābhūtañāṇadassanaṃ, yathābhūtañāṇadassane asati yathābhūtañāṇadassanavipannassa hatūpaniso hoti nibbidāvirāgo, nibbidāvirāge asati nibbidāvirāgavipannassa hatūpanisaṃ hoti vimuttiñāṇadassanaṃ. Seyyathāpi bhikkhave rukkho sākhāpalāsavipanno tassa papaṭikāpi na pāripūriṃ gacchati, taco pi pheggu pi sāro pi na pāripūriṃ gacchati, evamevaṃ kho bhikkhave satisampajaññe asati satisampajaññavipannassa hatūpanisaṃ hoti hirottappaṃ… … vimuttiñāṇadassanaṃ.

‘‘Satisampajaññe bhikkhave sati satisampajaññasampannassa upanisasampannaṃ hoti hirottappaṃ, hirottappe sati hirottappasampannassa upanisasampanno hoti indriyasaṃvaro, indriyasaṃvare sati indriyasaṃvarasampannassa upanisasampannaṃ hoti sīlaṃ, sīle sati sīlasampannassa upanisasampanno hoti sammāsamādhi, sammāsamādhimhi sati sammāsamādhisampannassa upanisasampannaṃ hoti yathābhūtañāṇadassanaṃ.,yathābhūtañāṇadassane sati yathābhūtañāṇadassanasampannassa upanisasampanno hoti nibbidāvirāgo, nibbidāvirāge sati nibbidāvirāgasampannassa upanisasampannaṃ hoti vimuttiñāṇadassanaṃ. Seyyathāpi bhikkhave rukkho sākhāpalāsasampanno, tassa papaṭikāpi pāripūriṃ gacchati, taco pi pheggu pi sāro pi pāripūriṃ gacchati. Evamevaṃ kho bhikkhave satisampajaññe sati satisampajaññasampannassa upanisasampannaṃ hoti hirottappaṃ…

15. A. IV. 99.
16. Mp. (Sinh. ed) p· 732: = hatūpaniso ti hataupaniso chinnapaccayo. Yathābhūtañāṇadassananti taruṇavipassanā, nibbidāvirāgo ti balavavipassanā ceva maggo ca; vimuttiñāṇadassananti arahattavimutti ca paccavekkhaṇā ca.

17. A. IV. 200: Seyyathāpi Pahārāda mahāsamuddo anupubbaninno anupubbapoṇo anupubbapabbhāro na āyataken’eva papāto, evamevaṃ kho Pahārāda imasmiṃ dhammavinaye anupubbasikkhā anupubbakiriyā anupubbapaṭipadā na āyataken’eva aññāpaṭivedho.

18. MP. (Sinh. ed) p. 762: Na āyatakeneva aññāpaṭivedho ti maṇḍūkassa uppatitvā gamanaṃ viya āditova sīlapūraṇādiṃ akatvā arahattappaṭivedho nāma natthi paṭipāṭiyā pana sīlasamādhipaññāyo pūretvāva sakkā arahattaṃ pattunti attho. + Soma Thera translation.

19. Vis. Mag. 438: Samāhito yathābhūtaṃ jānāti passatīti vacanato pana samādhi tassā padaṭṭhānaṃ.

20. S. IV, 194-95: Seyyathāpi bhikkhu rañño paccantimaṃ nagaraṃ daḷhuddāpaṃ daḷhapākāratoraṇaṃ chadvāraṃ. Tatrassa dovāriko paṇḍito byatto medhāvī aññātānaṃ nivāretā ñātānaṃ pavesetā. Puratthimāya disāya āgantvā sīghaṃ dūtayugaṃ taṃ dovārikaṃ evaṃ vadeyya, kahaṃ bho purisa imassa nagarassa nagarassāmī’ti, so evaṃ vadeyya. Eso bhante majjhe siṅghāṭake nisinno ti. Atha kho taṃ sīghaṃ dūtayugaṃ nagarassāmikassa yathābhūtaṃ vacanaṃ niyyātetvā yathāgatamaggaṃ paṭipajjeyya, pacchimāya disāya … uttarāya disāya… dakkhiṇāya disāya … yathāgatamaggaṃ paṭipajjeyya.

Upamā kho myāyaṃ bhikkhu katā atthassa viññāpanāya ayañcettha attho. Nagaran’ti kho bhikkhu imassetaṃ cātumahābhūtikassa kāyassa adhivacanaṃ mātāpettikasambhavassa odanakummāsūpacayassa aniccucchādanaparimaddanabhedanaviddhaṃsanadhammassa. Cha dvārā ti kho bhikkhu channetaṃ ajjhattikānaṃ āyatanānaṃ adhivacanaṃ. Dovāriko ti kho bhikkhu, satiyā etaṃ adhivacanaṃ. ‘Sīghaṃ dūtayugan’ti kho bhikkhu samathavipassanānetaṃ adhivacanaṃ. Nagarassāmī’ti kho bhikkhu viññāṇassetaṃ adhivacanaṃ. Majjhe siṅghāṭako ti kho bhikkhu catunnetaṃ mahābhūtānaṃ adhivacanaṃ, pathavīdhātuyā … vāyodhātuyā,yathābhūtaṃ vacanan’ti kho bhikkhu nibbānassetaṃ adhivacanaṃ. Yathāgatamaggo ti kho bhikkhu ariyassetaṃ aṭṭhaṅgikassa maggassa adhivacanaṃ. Seyyathidaṃ sammādiṭṭhiyā…pe… sammāsamādhissā ti.

21. Spk. III, 60-6: Chadvāranti nagaradvāraṃ nāma ekampi hoti dve pi satampi sahassampi, idha pana satthā chadvārikanagaraṃ dassento evamāha. Paṇḍito ti paṇḍiccena samannāgato. Byattoti veyyattiyena samannāgato visadañāṇo. Medhāvī ti ṭhān’uppattikapaññāsaṅkhātāya medhāya samannāgato.

Puratthimāya disāyāti ādimhi bhūtaṃ atthaṃ katvā evaṃ attho veditabbo.

Samiddhe kira mahānagare sattaratanasampanno rājā cakkavatti rajjaṃ anusāsati. Tass’etaṃ paccantanagaraṃ rājāyuttavirahitaṃ. Atha purisā āgantvā amhākaṃ, deva, nagare āyuttako n’atthi. Dehi no kiñci āyuttakan’ti āhaṃsu. Rājā ekaṃ puttaṃ datvā ‘gacchatha, etaṃ ādāya tattha abhisiñcitvā vinicchayaṭṭhānādīni katvā vasathā’ti. Te tathā akaṃsu. Rājaputto pāpamittasaṃsaggena katipāheyeva surāsoṇḍo hutvā, sabbāni vinicchayaṭṭhānādīni hāretvā, nagaramajjhe dhuttehi parivārito suraṃ pivanto naccagītādiratiyā vītināmeti. Atha rañño āgantvā ārocayiṃsu

Rājā ekaṃ paṇḍitaṃ amaccaṃ āṇāpesi. Gaccha kumāraṃ ovaditvā, vinicchayaṭṭhānādīni kāretvā, puna abhisekaṃ katvā, ehī’ti. Na sakkā, deva, kumāraṃ ovadituṃ. Caṇḍo kumāro ghāteyyāpi manti. Ath’ekaṃ balasampannaṃ yodhaṃ āṇāpesi,‘tvaṃ iminā saddhiṃ gantvā, sace so ovāde na tiṭṭhati, sīsamassa chindāhī’ti. Iti so amacco yodho, cāti idaṃ sīghaṃ dūtayugaṃ tattha gantvā dovārikaṃ pucchi, ‘Kahaṃ, bho, nagarassa sāmi kumāro’ti.

Esa majjhe siṅghāṭake suraṃ pivanto dhuttaparivārito gītādiratiṃ anubhonto nisinno’ti. Atha taṃ dūtayugaṃ gantvā amacco tāvettha, sāmi, vinicchayaṭṭhānādīni kira kāretvā sādhukaṃ rajjaṃ anusāsā’ti āha. Kumāro asuṇanto viya nisīdi. Atha naṃ yodho sīse gahetvā, ‘sace rañño āṇaṃ karosi, kara, no ce, etth’eva te sīsaṃ pātessāmī’ti khaggaṃ abbāhi. Paricārakā dhuttā tāvadeva disāsu palāyiṃsu. Kumāro bhīto sāsanaṃ sampaṭicchi. Ath’assa te tatth’eva abhisekaṃ katvā setacchattaṃ ussāpetvā ‘sammā rajjaṃ anusāsāhī’ti raññā vuttaṃ yathābhūtavacanaṃ niyyātetvā yathāgatamaggaṃ eva paṭipajjiṃsu. Ima ṃ atthaṃ āvikaronto bhagavā puratthimāya disāyā’ti āha.

Tatr’idaṃ opammasaṃsandanaṃ – samiddhaṃ mahānagaraṃ viya hi nibbānanagaraṃ daṭṭhabbaṃ, sattaratanasamannāgato rājā cakkavatti viya sattabojjhaṅgaratanasamannāgato. Dhammarājā -Sammāsambuddho, paccantimanagaraṃ viya sakkāyanagaraṃ. Tasmiṃ nagare kūṭarājaputto viya imassa bhikkhuno kūṭacitt’uppādo, kūṭarājaputtassa dhuttehi parivāritakālo viya imassa bhikkhuno pañcahi nīvaraṇehi samaṅgikālo. Dve sīghadūtā viya samathakammaṭṭhānañca vipassanākammaṭṭhānañca. Mahāyodhena sīse gahitakālo viya uppannapaṭhamajjhānasamādhinā niccalaṃ katvā cittaggahitakālo. Yodhena sīse gahitamatte dhuttānaṃ disāsu palāyitvā dūrībhāvo viya paṭhamajjhānamhi uppannamatte nīvaraṇānaṃ dūrībhāvo, ‘karissāmi rañño sāsanan’ti sampaṭicchitamatte vissaṭṭhakālo viya jhānato vuṭṭhitakālo, amaccena rañño sāsanaṃ ārocitakālo viya samādhinā cittaṃ kammaniyaṃ katvā vipassanākammaṭṭhānassa vaḍḍhitakālo. Tatth’ev’assa tehi dvīhi dūtehi katābhisekassa setacchattaussāpanaṃ viya samathavipassanākammaṭṭhānaṃ nissāya arahattappattassa vimuttisetacchatt’ussāpanaṃ veditabbaṃ.

Nagaranti kho, bhikkhu, imass’etaṃ cātumahābhūtikassa kāyassa adhivacananti ādīsu pana, cātumahābhūtikassāti ādīnaṃ padānaṃ attho heṭṭhā vitthāritova. Kevalaṃ pana viññāṇarājaputtassa nivāsaṭṭhānattā ettha kāyo nagaranti vutto. Tass’eva dvārabhūtattā cha āyatanāni dvārānī ti, tesu dvāresu niccaṃ suppatiṭṭhitattā sati dovāriko ti. Kammaṭṭhānaṃ ācikkhantena dhammarājena pesitattā samathavipassanā sīghaṃ dūtayugan’ti. Ettha mahāyodho viya samatho, paṇḍitāmacco viya vipassanā veditabbā.

Majjhe siṅghāṭakoti nagaramajjhe siṅghāṭako. Mahābhūtānanti, hadayavatthussa nissayabhūtānaṃ mahābhūtānaṃ . Vatthurūpassa hi paccayadassan’atthamev’etaṃ catumahābhūtaggahaṇaṃ kataṃ. Nagaramajjhe pana so rājakumāro viya sarīramajjhe hadayarūpasiṅghāṭake nisinno samathavipassanādūtehi arahattābhisekena abhisiñcitabbo vipassanāviññāṇarājaputto daṭṭhabbo. Nibbānaṃ pana yathābhūtasabhāvaṃ akuppaṃ adhikārīti katvā yathābhūtaṃ vacananti vuttaṃ…

22. D. I. 73: Eva ṃ eva kho mahārāja bhikkhu yathā iṇaṃ yathā rogaṃ yathā bandhanāgāraṃ yathā dāsabyaṃ yathā kantāraddhānamaggaṃ, evaṃ ime pañca nīvaraṇe appahīne attani samanupassati…
--------
Người dịch ghi chú:

Mp. (Sinh. ed) = Manorathapūraṇī/ chú giải Aṅguttara Nikāya, ấn bản Sinhala.

Spk = Sāratthappakāsinī/chú giải Saṃyutta Nikāya
---------

Chương 2

SÁT NA ĐỊNH

Đáp Trả Phần Phản Bác II-I

Tác Giả: Kheminda Thera (Tích Lan)

Ven. Ñānuttra Sayādaw nói: “Người mà chủ yếu tu tập định cận hành – an chỉ là một Samatha-yānika (người có cỗ xe chỉ). Người mà tiến hành trực tiếp với quán không có tu tập trước định đã đề cập là Vipassanā-yānika (người có cỗ xe quán)”. Sau khi dùng những từ "trước đó" và "trước" mười lần trong phần đầu tiên của bài viết khi nguyên bản Pāḷi không bảo đảm việc dùng những từ này, Ven. Ñāṇuttara lặp lại nó ở đây trong lần thứ 11.

Giờ đây nếu theo phát biểu ở trên có ý nói rằng trong hai loại hành giả mà tu tập quán ở Kiến thanh tịnh, người bắt đầu tu tập quán với “định cận hành - an chỉ” và người kia tu tập quán trực tiếp, tôi đồng ý. Nhưng nếu theo phát biểu này có ý nói rằng người mà tu tập quán ở Kiến thanh tịnh không bao giờ tu tập “định cận hành – an chỉ” ở thanh tịnh trước, tức là Tâm thanh tịnh, như từ ngữ “trước” sẽ ám chỉ, tôi không đồng ý.

Vì rằng Tâm thanh tịnh bao gồm tám thiền chứng, là “nhân gần của quán’” cho tất cả; và Tâm thanh tịnh là thanh tịnh thứ hai, như mọi người biết, đi trước Kiến thanh tịnh mà là thanh tịnh thứ ba nơi quán bắt đầu.
12. Ven. Ñāṇuttara Sayādaw nói rằng “Ven. Mahāsī Sayādaw dựa vào nguồn đáng tin cậy là kinh văn Aṅguttara Nikāya, các Chú giải và các Phụ chú giải Tích Lan cũng như Chú giải của Dhammapāla, người Nam Ấn , ngài viết rằng: “… Trong hai loại này, Vipassanā-yānika có sát na định và bằng cách đó chứng đạt Tâm thanh tịnh”.

Như được nêu ra trong bài viết đầu tiên ở cột 3, trang 6, Visuddhimagga (Thanh tịnh đạo) nói “Hoặc là, sau khi vào những thiền (jhāna) đó và xuất ra, vị ấy tuệ quán cái tâm tương ưng với thiền này có tính cách hoại diệt, tiêu vong, rồi ở khoảnh khắc quán xác thực sát na nhất tâm phát sinh do thâm nhập những tướng (vô thường v.v…).

‘Vị ấy học tập như vầy “Định tâm tôi sẽ thở vào … Định tâm tôi sẽ thở ra”, những từ ngữ như vậy cũng được nói đến người mà đặt tâm cân bằng trên đối tượng theo cách sát na nhất tâm đã phát sinh như vậy’. (34) +

Bình luận về điểm này, Paramatthamañjūsā (chú giải Visuddhimagga) nói rằng: “Sát na nhất tâm”: định chỉ kéo dài trong một sát na. Vì định đó, khi nó sinh khởi không gián đoạn trên đối tượng trong một hành tướng và không bị chế ngự bởi pháp đối nghịch, cũng khắn khít tâm một cách không xao đ ộng, như thể trong trạng thái an chỉ”. (35)

Lạ thay, Ven. Mahāsī Sayādaw, để chỉ ra một “Sát na định mà có thể chế ngự các triền cái”, phải dùng đến sát na định này mà người chứng thiền tạo ra “ở khoảnh khắc quán xác thực (Vipassanākkhane)”. Nhưng điều này không hợp lý. Đấy là kinh nghiệm của người chứng thiền và chỉ thuộc về hành giả đó mà thôi. Tuy nhiên, định này mà phát sinh “ở khoảnh khắc quán xác thực” không nên lầm lẫn với định có phần thâm nhập mà phát sinh sau quán (Vipassanāto pacchā uppādito nibbedhabhāgiyo samādhi) và đó là cận hành định hoặc an chỉ định (Upacārappanabhedo). (36)

Loại định sau này sinh khởi ở đạo (magga) và định trước sinh khởi trước đạo. Không có cái nào trong đó tạo thành Tâm thanh tịnh. Chúng liên quan với quán.

Nhưng chỉ có điều là định mà phát sinh do nhờ sự tu tập một đề mục thiền chỉ (samatha) tạo ra tâm thanh tịnh. Và đều này xảy ra trước sự tu tập quán, trước sự tu tập t niệm xứ (xem phần I (a) & (b) ở trên và những phần 34, 35 ở dưới.
Tâm thanh tịnh không bao giờ sinh khởi trong khi hoặc sau khi quán. Để dạy rằng nó sinh khởi sau quán, như Ven. Mahāsī Sayādaw thực hiện trên trang 4 của The Progress of Insight là coi thường Rathavinīta Sutta mà nói rằng “Tâm thanh tịnh có mục đích  đưa đến Kiến thanh tịnh (cittavisuddhi yāvadeva diṭṭhivisuddhatthā" xem phần 8 ở trên), nơi mà quán bắt đầu; và Saddhammappakāsini (chú giải Paṭisambhidāmagga) và Sumaṅgalavilāsinī (chú giải Dīgha Nikāya) nói rằng “Tâm thanh tịnh là tám thiền chứng đã thuần thục hoàn toàn, là nhân gần của quán”. (37)

Nó cũng đi ngược lại phát biểu được nêu ra trong Paramatthamañjūsā (chú giải Visuddhimagga) của “Ven. Dhammapāla Thera, người Nam Ấn” mà là nguồn đáng tin cậy mà Ven. Mahāsī Sayādaw dựa vào theo như Ven. Ñāṇuttara Sayādaw cho biết.

Và đây là những gì Ven. Dhammapāla Thera nói trong đó “Chỉ nhờ có trí đơn độc người ta không được thiết lập trong Tâm thanh tịnh: Không có được thiết lập trong đó thì không thể hoàn thành thanh tịnh cao hơn”, (38) tức là Kiến thanh tịnh nơi quán bắt đầu.

Như vậy không có Kinh nào, không có Chú giải nào, cũng không có ngay cả Phụ chú giải nào ủng hộ phát biểu của Ven. Ñāṇuttara Sayādaw, trái lại chúng hoàn toàn đối nghịch với vị ấy.

13. Theo các đoạn văn ở 1 (a) và (b) đề cập ở trên, sự từ bỏ các triền cái phải xảy ra trước khi tứ niệm xứ được tu tập. Không có ngoại lệ; ngay cả các bậc Sammāsambodhisatta (Bồ tát Toàn giác) cũng không được miễn trừ với đòi hỏi này. Và vì vậy Thế Tôn khuyến khích Ven. Sāriputta Thera như vầy: “Hãy tuyên thuyết lời dạy này thường xuyên cho các tỳ kheo và tỳ kheo ni, các nam, nữ cư sĩ để mà nếu trong số họ có bất cứ kẻ ngu nào mà có nghi ngờ và hoang mang về phương pháp giảng dạy của ta, sau khi nghe lời giải bày này, họ có thể từ bỏ các nghi ngờ và hoang mang”.

Và chú giải nhấn mạnh phát biểu này của Đức Phật nói rằng điều đó nên được tuyên thuyết vào buổi sáng, buổi trưa và ngày hôm sau v.v…. Như vậy, bằng cách hoãn lại việc từ bỏ các triền cái cho đến sau khi tu tập quán, lời dạy của Ven. Mahāsī Sayādaw khiến s tiến bộ của hành giả dừng lại đột ngột sau khi tu tập Giới thanh tịnh.

Hơn nữa, dưới đầu đề “Tâm thanh tịnh” ở trang 2 của luận đề The Progress of Insight, Ven. Mahāsī Sayādaw diễn tả không phải Tâm thanh tịnh nhưng là quán. Chương này bắt đầu với phần phụ với nhan đề “ (a) Phương pháp quán tóm tắt”, và tiếp tục nói ‘Khi Giới thanh tịnh đã được thiết lập hành giả mà đã chọn thuần quán làm cỗ xe nên nỗ lực quán sát danh sắc (nāmarūpa). Trong khi làm thế vị ấy nên quán sát, theo những tướng của chúng …” mà là quán. Phần phụ thứ hai với nhan đề “(b)Tâm thanh tịnh” trên trang 3 tiếp tục với sự tu tập bao gồm trong “Sự chuyển động của bụng” từ đó sinh ra sát na định này mà mở đầu một cách đáng kinh ngạc trên trang 4 khi nói rằng “Điều này được gọi là Tâm thanh tịnh”.

Kế đó Ven. Mahāsī Sayādaw tiếp tục liên kết sát na định này với sát na định của người chứng thiền mà phát sinh với sức mạnh của thiền “ở khoảnh khắc quán xác thực” được đề cập trong đoạn văn trước phần cuối. Điều này đang đặt chiếc xe trước con ngựa và tệ hơn: nó đang đặt chiếc xe của kẻ khác trước con ngựa của mình.

14. Ven. Ñāṇuttara Sayādaw nói: “Ven. Mahāsī Sayādaw … với những thiện chí nhiệt thành, đã viết luận đề được đề cập ở trên về thiền Phât giáo. Thực là điều đáng tiếc sâu đậm rằng Ven. Kheminda Thera rõ ràng không có đào sâu vào các kinh điển Pāḷi, các Chú giải và các Phụ chú giải đã múa bút vô tội vạ để diễn đạt những gì vị ấy nói theo thiên kiến bằng cách gán cho phương pháp Suddha-vipassanāyānika (người có cỗ xe Thuần quán) là phương pháp thiền mới của Miến Điện”. Tôi không cho rằng bất cứ ai nghi ngờ những thiện chí của Ven. Mahāsī Sayādaw. Tuy nhiên người ta phải lưu ý rằng chúng không phải là những thay thế cho sự trình bày chính xác về Pháp. Do đó những giáo huấn của Đức Phật nêu ra trong Catu Mahāpadesa Sutta là: bác bỏ một giáo lý khi nó không phù hợp với kinh và chấp nhận khi nó phù hợp.

Hơn nữa, tôi không gán ghép phương pháp Suddha-vipassanāyānika như là mới hoặc của Miến Điện. Những gì tôi xác quyết là gọi phương pháp của Ven. Mahāsī Sayādaw là mới và thuộc về Miến Điện và tôi có nhiều lý do để làm như thế. Tôi đang nghi vấn sự chắc chắn của những chứng từ về Suddha-vipassanāyānika của Ven. Mahāsī Sayādaw mà được cho là để tu tập quán, mà thuộc về thanh tịnh thứ ba, để tạo ra Tâm thanh tịnh vốn là thanh tịnh thứ hai.
Do đó tôi khẩn khoản yêu cầu Ven. Ñāṇuttara Sayādaw đọc lại bài viết đầu tiên của tôi và cũng đọc những bài viết này cẩn thận.Tôi trân trọng yêu cầu vị ấy với tất cả sự nghiêm túc để xem xét hết những phần tham khảo mà tôi đã nêu ra trong đó và đi đến kết luận theo đúng những giáo huấn của Đức Phật được nêu ra trong Catu Mahāpadesa Sutta. Tôi xin thúc giục vị ấy xem xét đoạn văn Phụ chú giải của Ven. Dhammapāla Thera được nêu ra trong bài viết đầu tiên của tôi trong trang 9, cột 1, được sao chép ở đây trong phần (12) ở trên để dễ tham khảo.

Tôi nói việc này bởi vì vị ấy đã quyết định lờ nó đi hoàn toàn, mặc dù vị ấy khẳng định rằng phương pháp mới này có những lời tán thành của Ven. Dhammapāla, người Nam Ấn.

15. Ven, Ñāṇuttara Sayādaw nói rằng tôi “khẳng định rằng người ta không thể đạt đến trạng thái A la hán nếu không có thiền” và đưa tôi đến chú giải kinh thứ tám của Mudutara Vagga, Indriya Saṃyutta. Kế đó, vị ấy nói “Đức Phật không nói rằng chỉ những ai chứng thiền hợp thế (Lokiya-jhāna) mới có thể chứng định căn (Samādhindriyā) và cũng không nói rằng chỉ có những người chứng thiền mới có thể chứng các thánh vị (Ariyabhūmi)”. Rõ ràng kinh này mà Ven. Kheminda Thera trích dẫn không ủng hộ luận cứ của vị ấy”.

Người ta không cần nhấn mạnh rằng bậc A la hán có thiền siêu thế (lokuttarā jhāna).

Điều này đủ rõ. Nhưng thiền hợp thế (lokiya jhāna) là cần thiết để đạt đến phẩm vị của các bậc thánh vì những lý do sau đây: Đức Phật đã đặt các Sutta (kinh) vào thẩm quyền tối thượng liên quan đến Pháp và Vinaya liên quan đến luật  và diễn tả những hành động cuối của hành giả khi là một phàm phu (puthujjana) và những hành động đầu tiên của vị ấy khi là một bậc thánh (ariya). Đức Phật dạy trong Okkantika Saṃyutta: “Này chư tỳ kheo, mắt, tai, mũi, lưỡi thân và ý là vô thường (anicca), biến đổi (viparināmi) và không bền vững (aññathābhāvi). Người có tín trong lời dạy này và quyết tâm vững chắc trong đó được gọi là người cố gắng theo tín (saddhānusāri - tùy tín hành). Vị ấy đã vào chánh đạo (Sammatanniyama), vào chân nhân địa Sappurisabhūmi), sau khi vượt qua phàm phu địa. Vị ấy không thể làm bất cứ hành động nào mà sau khi làm nó sẽ tái sinh trong địa ngục, hoặc trong cõi thú, hoặc trong cõi ngạ quỷ và không thể mạng chung mà không có chứng quả dự lưu (sotāpattiphala).

“Người có tuệ tìm thấy an lạc đến một mức độ trong những lời dạy này được gọi là người cố gắng theo pháp (dhammanusāri - tùy pháp hành). Vị ấy cũng vào chánh đạo, vào chân nhân địa sau khi vượt qua phàm phu địa, vị ấy không thể làm bất cứ hành động nào mà sau khi làm nó sẽ tái sinh trong địa ngục, hoặc trong cõi thú, hoặc trong cõi ngạ quỷ và không thể mạng chung mà không có chứng quả dự lưu”. (40)

Chú giải có lời giải thích “Chánh đạo (sammattanyama)= vào thánh đạo (ariyamagga)”. (41)

Hai người này được diễn tả thêm trong Papañcasūdanī, (chú giải Majjhima Nikāya), như vầy “Ở đấy người cố gắng theo pháp và người cố gắng theo tín, hai người này được thiết lập trong đạo dự lưu (sotāpattimaggaṭṭha).

Như được phát biểu (trong Puggala Paññatti 15): “Người cố gắng theo pháp là người nào? Tuệ căn (paññindriya) của người đang thực hành để thực chứng quả dự lưu (sotāpatti-phalasacchikiriyāya paṭipanna) là rất lớn lao (adhimatta); được mang đi bởi tuệ (paññāvāhi), được tuệ dẫn đầu (paññāpubbaṅgamā), vị ấy tu tập (bhāveti) thánh đạo (ariyamagga); người này được gọi là người cố gắng theo pháp. Người đang thực hành để thực chứng quả dự lưu là người cố gắng theo pháp: khi được thiết lập trong quả người này được gọi là đạt đến do tri kiến (diṭṭhipatta).

Người cố gắng theo tín là người nào? Tín căn (saddhindriya) của người đang thực hành để thực chứng quả dự lưu là rất lớn lao (adhimatta); được mang đi bởi tín (saddhāvāhi), được tín dẫn đầu (saddhāpubbaṅgamā) , vị ấy tu tập (bhāveti) thánh đạo (ariyamagga);

người này được gọi là người cố gắng theo tín. Người đang thực hành để thực chứng quả dự lưu là người cố gắng theo tín; khi được thiết lập trong quả người này được gọi là giải thoát do tín (saddhāvimutta). (42)

Những hành động cuối của hành giả khi là một phàm phu, như chúng ta đã thấy trước đó, là sự tu tập quán bằng cách vô thường (anicca) v.v… Đây là đỉnh cao của sự học tập khi là một phàm phu. Nhiều giai đoạn khác nhau của học tập tuần tự, làm phận sự tuần tự và hành đạo tuần tự (anupubbasikkha, anupubbakiriyā, anupubbapatipadā) được đề cập trong phần 5 ở trên, được bao gồm trong phần trình bày đầy đủ hơn được nêu ra trong phần 4 ở trên, nơi mà phát biểu sau đây xảy ra:

“Khi không có chánh định (sammāsamādhimhi asati) trong người mà thiếu chánh định (sammāsamādhi-vipannassa) thì duyên tròn đủ của tri kiến như thực về các pháp bị diệt; khi không có tri kiến như thực về các pháp (yathābhūtañāṇadassane asati) trong người mà thiếu tri kiến như thực về các pháp (yathābhūtañāṇadassanavipannassa) thì duyên tròn đủ của yếm ly – ly tham bị diệt”. Theo chú giải “tri kiến như thực về các pháp “là quán yếu (taruna vipassanā)” và “yếm ly – ly tham (nibbidā-virāga)” là quán mạnh cũng như đạo’ (balava vipassanā ceva maggo ca)".

Sau khi vạch ra một cách rõ ràng cái hại đó là hệ quả của sự vắng mặt những duyên tròn đủ này, Đức phật tiếp tục, cho thấy không kém rõ ràng những lợi ích mà sự hiện diện của chúng bảo đảm, như vầy “Khi có chánh định (sammāsamādhimhisati), người mà có chánh định (Sammāsamādhisaṃ paññassa), vị ấy có duyên tròn đủ của tri kiến như thực về các pháp (upanisasampannaṃ hoti yathābhūtañāṇadassanam); khi có tri kiến như thực về các pháp (yathābhūtañāṇadassane sati), người mà có tri kiến như thực về các pháp (yathābhūtañāṇadasanasampannassa), vị ấy có yếm ly – ly tham (upanisasampanno hoto nibbidā-virāgo)”. (43)
-----------
CHÚ THÍCH

34 and 35. See nn. 5 and 6 issue of July 1966. (34 và 35. Xem nn. 5, 6 số báo tháng Bảy 1966) + Bản dịch của Ñaṇamoli Thera.

36. See n. 32 (xem ghi chú 32)
37. Sv. III, 1062: Cittavisuddhīti vipassanāya padaṭṭhānabhūtā aṭṭha paguṇasamāpattiyo.

38. See n. 18 in issuse of July 1966. (xem n. 18 số báo tháng Bảy 1966).

39. See nn. 5 and 9.

40. S III, 225: Cakkhuṃ bhikkhave aniccaṃ vipariṇāmi aññathābhāvi, sotaṃ… ghānaṃ… jivhā… kāyo … mano anicco vipariṇāmī aññathābhāvī. Yo bhikkhave ime dhamme evaṃ saddahati adhimuccati ayaṃ vuccati saddhānusārī, okkanto sammattaniyāmaṃ sappurisabhūmiṃ okkanto vītivatto puthujjanabhūmiṃ, abhabbo taṃ kammaṃ kātuṃ yaṃ kammaṃ katvā nirayaṃ vā tiracchānayoniṃ vā pettivisayaṃ vā upapajjeyya, abhabbo ca tāva kālaṃ kātuṃ yāva na sotāpattiphalaṃ sacchikaroti.

41. Spk. II, 346: Okkanto sammattaniyāmanti, paviṭṭho ariyamaggaṃ.

42. Ps. II, 120: Tattha dhammānusārino, saddhānusārino ti ime dve sotāpattimaggaṭṭhā honti. Yath’āha: “Katamo ca puggalo dhammānusārī? Yassa puggalassa sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipannassa paññindriyaṃ adhimattaṃ hoti, paññāvāhiṃ, paññāpubbaṅgamaṃ ariyamaggaṃ bhāveti. Ayaṃ vuccati puggalo dhammānusārī. Sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanno puggalo dhammānusārī, phale ṭhito diṭṭhippatto. Katamo ca puggalo saddhānusārī? Yassa puggalassa sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipannassa saddhindriyaṃ adhimattaṃ hoti, saddhāvāhiṃ saddhāpubbaṅgamaṃ ariyamaggaṃ bhāveti. Ayaṃ vuccati puggalo saddhānusārī. Sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanno puggalo saddhānusārī, phale ṭhito saddhāvimutto”ti (Pug. (15).

43. See n. 14 (xem ghi chú 14)

44. A. V. 312-13: Sīlavato, bhikkhave, sīlasampannassa na cetanāya karaṇīyaṃ ‘avippaṭisāro me uppajjatū’ti. Dhammatā esā, bhikkhave, yaṃ sīlavato sīlasampannassa avippaṭisāro uppajjati. Avippaṭisārissa bhikkhave na cetanāya karaṇīyaṃ ‘pāmojjaṃ me uppajjatū’ti. Dhammatā esā bhikkhave, yaṃ avippaṭisārissa pāmojjaṃ uppajjati. Pamuditassa bhikkhave na cetanāya karaṇīyaṃ ‘pīti me uppajjatū’ti. Dhammatā esā bhikkhave, yaṃ pamuditassa pīti uppajjati. Pītimanassa bhikkhave na cetanāya karaṇīyaṃ ‘kāyo me passambhatū’ti. Dhammatā esā, bhikkhave, yaṃ pītimanassa kāyo passambhati. Passaddhakāyassa bhikkhave na cetanāya karaṇīyaṃ ‘sukhaṃ vediyāmī’ti. Dhammatā esā bhikkhave, yaṃ passaddhakāyo sukhaṃ vediyati. Sukhino bhikkhave na cetanāya karaṇīyaṃ ‘cittaṃ me samādhiyatū’ti. Dhammatā esā bhikkhave, yaṃ sukhino cittaṃ samādhiyati. Samāhitassa bhikkhave, na cetanāya karaṇīyaṃ ‘yathābhūtaṃ jānāmi passāmī’ti. Dhammatā esā bhikkhave, yaṃ samāhito yathābhūtaṃ jānāti passati.Yathābhūtaṃ bhikkhave, jānato passato na cetanāya karaṇīyaṃ ‘nibbindāmī’ti. Dhammatā esā bhikkhave, yaṃ yathābhūtaṃ jānaṃ passaṃ nibbindati. Nibbinnassa bhikkhave, na cetanāya karaṇīyaṃ ‘virajjāmī’ti. Dhammatā esā bhikkhave, yaṃ nibbinno virajjati.Virattassa bhikkhave, na cetanāya karaṇīyaṃ ‘vimuttiñāṇadassanaṃ sacchikaromī’ti. Dhammatā esā bhikkhave, yaṃ viratto vimuttiñāṇadassanaṃ sacchikaroti.
--------

Người dịch ghi chú:

Bài trước đánh số CHÚ THÍCH cuối là 22 đến bài này đánh số CHÚ THÍCH đầu là 35, như vậy có thể sách in mất một bài. 

Sv = Sumaṅgalavilāsinī (chú giải Dīgha Nikāya).

S = Saṃyutta Nikāya (Saṃyutta Nikāya).

Spk = Sāratthappakāsinī (chú giải Saṃyutta Nikāya).

Ps = Papañcasūdani (chú giải Majjhima Nikāya).

Pug. = Puggalapaññatti. 
--------

SÁT NA ĐỊNH

Đáp Trả Phần Phản Bác II-II

Tác Giả: Kheminda Thera (Tích Lan)

Sự vắng mặt những duyên tròn đủ này kéo dài vòng luân hồi sinh tử trong khi sự hiện diện của chúng bảo đảm việc tiến nhanh ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này. Trong khi đây là phát biểu rõ ràng của kinh (sutta) này, người ta tìm thấy thêm một ý nghĩa từ sự thực rằng phần này của kinh mà giờ đây chúng ta đang thảo luận được bao gồm trong kinh về “Cái chuỗi pháp tất nhiên”, nơi mà Đức Phật tuyên thuyết rằng nó chuyển người thực hành từ bờ này đến bờ kia, như vầy “Này chư tỳ kheo, một người có giới, người mà thành tựu giới, không cần phải suy nghĩ, ‘Cầu mong hối tiếc không có mặt nơi tôi’. Này chư tỳ kheo, cố nhiên có sự vắng bặt hối tiếc (vippaṭisāra) trong người có giới, trong người mà thành tựu giới”.

“Này chư tỳ kheo, người vắng bặt hối tiếc không cần phải suy nghĩ, ‘Cầu mong hân hoan (pāmojja) có mặt nơi tôi’. Này chư tỳ kheo, cố nhiên có hân hoan trong người mà vắng bặt hối tiếc”. “Này chư tỳ kheo, người hân hoan không cần phải suy nghĩ ‘Cầu mong hỷ (pīti) có mặt nơi tôi’. Này chư tỳ kheo, cố nhiên có hỷ trong người mà hân hoan”.

Này chư tỳ kheo, người mà có hỷ không cần phải suy nghĩ ‘Cầu mong thân của tôi khinh an’. Này chư tỳ kheo, người mà có hỷ cố nhiên thân khinh an”. Này chư tỳ kheo, người có thân khinh an không cần phải suy nghĩ ‘Cầu mong cho tôi cảm thọ lạc (sukha)’. Này chư tỳ kheo, người có thân khinh an cố nhiên cảm thọ lạc”. Này chư tỳ kheo, người cảm thọ lạc không cần phải suy nghĩ, ‘Cầu mong tâm tôi có định (samādhi)’. Này chư tỳ kheo, tâm người cảm thọ lạc cố nhiên có định”.

Này chư tỳ kheo, người có tâm định không cần phải suy nghĩ ‘Cầu mong cho tôi biết và thấy các pháp như thực (yathābhūtaṃ jānāmi passāmi’. Này chư tỳ kheo, người có tâm định cố nhiên biết và thấy các pháp như thực”.

Này chư tỳ kheo, người mà biết và thấy các pháp như thực không cần phải suy nghĩ ‘Cầu mong cho tôi yếm ly, các pháp (nibbidā)’. Này chư tỳ kheo, người mà biết và thấy các pháp như thực cố nhiên yếm ly các pháp”. Này chư tỳ kheo, người mà yếm ly các pháp không cần phải suy nghĩ ‘Cầu mong cho tôi ly tham (virāgā) các pháp’. Này chư tỳ kheo, người mà yếm ly các pháp cố nhiên ly tham các pháp”. Này chư tỳ kheo, người mà ly tham các pháp không cần phải suy nghĩ ‘Cầu mong cho tôi thực chứng giải thoát tri kiến(vimuttiñāṇadassanaṃ sacchikaroti). Này chư tỳ kheo, người mà ly tham các pháp cố nhiên thực chứng giải thoát tri kiến”. Như vậy, này chư tỳ kheo, mục đích và lợi ích của ly tham là giải thoát tri kiến. Mục đích và lợi ích của yếm ly là ly tham. Mục đích và lợi ích của biết và thấy như thực là yếm ly. Mục đích và lợi ích của định là biết và thấy như thực. Mục đích và lợi ích của lạc là định. Mục đích và lợi ích của khinh an là lạc. Mục đích và lợi ích của hỷ là khinh an. Mục đích và lợi ích của hân hoan là hỷ. Mục đích và lợi ích của sự vắng bặt hối tiếc là hân hoan. Mục đích và lợi ích của giới là sự vắng bặt hối tiếc.
Như vậy, này chư tỳ kheo, các pháp đổ dồn vào các pháp và các pháp làm tràn đầy các pháp, trong cuộc hành trình từ đây đến mục đích. (44) (bản tiếng Anh Soma Thera )

Và khi Nettipakaraṇa ở trang 67 gọi cái chuỗi pháp tất nhiên này là “Duyên khởi siêu thế (lokuttarā paṭiccasamuppāda)”, làm tăng thêm sự đề cao giá trị của những kinh văn này và những kinh tương tự.

Trong những kinh này, một là ở Okkanta Saṃyutta diễn tả tóm tắt tiến trình chuyển đổi của hành giả từ trạng thái phàm phu (puthujjana) đến trạng thái bậc thánh (ariya); kinh khác là từ Aṅguttara Nikāya đã được nêu ra trong phần 4 ở trên, diễn tả tiến trình này một cách hết sức cô đọng trong câu nói: “yếm ly- ly tham (nibbidā-virāga)”.

Câu nói này giữ vị trí trung tâm từ đó có thể được thấy (a) một loạt giai đoạn trong hợp thế (lokiya) lùi lại phía sau đến ngay sự khởi đầu học tập của hành giả và (b) một loạt giai đoạn khác trong siêu thế (lokuttara) tiến hành đến tận quả A la hán (arahattaphala).

17. Có lời phát biểu trước rằng khi hành giả rời khỏi phàm phu địa (puthujjana-bhūmi), vị ấy làm như thế hoặc là bậc cố gắng theo pháp (tùy pháp hành) hoặc là bậc cố gắng theo tín (tùy tín hành). Chư vị được diễn tả thêm trong kinh sau đây như vầy: “Ở đây, này Mahānāma, một người nọ mặc dù không có ngay cả tín thông suốt trong Phật, Pháp, Tăng (na heva kho Buddhe aveccappasādena samannāgato hoti, na dhamme, na saṅghe), không có tuệ hoan hỷ (na hāsapañño), không có tuệ nhanh nhẹn (na javanapañño), cũng không có sự giải thoát (na ca vimuttiyā). Tuy nhiên có tín căn (saddhindriyā), tấn căn (viriyindriyā), niệm căn (satindriyā), định căn (samādhindriya) và tuệ căn (paññindriya); là người mà với tuệ hài lòng vừa phải về những lời dạy do Như Lai tuyên thuyết. Ngay cả vị này sẽ không đi đến địa ngục (niraya), cảnh súc sinh (tiracchānayoni), cảnh ngạ quỷ (pettivisaya) và những trạng thái thuộc đọa xứ (apāyaduggativinipāta)”.

Ở đây, này Mahānāma, một người nọ, mặc dù không có ngay cả tín thông suốt trong Phật, pháp,Tăng và không có tuệ hoan hỷ, không có tuệ nhanh nhẹn, cũng không có giải thoát (na ca vimuttiyā), tuy nhiên có tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn và chỉ có lòng tin, lòng quý mến Như Lai. Ngay cả vị này cũng không đi đến địa ngục, cảnh súc sanh, cảnh ngạ quỷ và những trạng thái đọa xứ”. (45)
Chú giải có lời giải thích: ‘Hài lòng vừa phải’(mattaso nijjhānaṃ khamanti) = quan sát với sự tán thành chỉ một chừng mực nào thôi (pamāṇena ca olokanaṃ khamanti). Theo câu này, người cố gắng theo pháp là người đứng trên đạo (maggaṭṭhapugga), được cho thấy ý nghĩa …”, ‘Chỉ có lòng tin (saddhamattaṃ) và chỉ có lòng quý mến (pemamattaṃ) = Theo câu này, người cố gắng theo tín đứng trên đạo (maggaṭṭhapuggala), được cho thấy ý nghĩa”. (46)

18. Độc giả ắt hẳn đã chú ý rằng sự chứng đạo đầu tiên, hoặc là người cố gắng theo pháp (dhammānusārī) hoặc là người cố gắng theo tín (saddhānusārī), gồm có năm căn, (pañcindriya) một trong số đó là định căn (samādhindriya).

Nơi khác cho thấy định căn này gồm có bốn thiền. Chúng ta cũng biết rằng định này là siêu thế (lokuttara). Hơn nữa, chúng ta đã thấy (a) tiến trình thay đổi này từ trạng thái phàm phu đến thánh được diễn tả bằng những từ cô đọng là “yếm ly- ly tham (nibbidā-virāgā)”; (b) duyên đầy đủ của yếm ly – ly tham (nibbidā-virāgā)’ là “tri kiến như thực về các pháp (yathābhūtañāṇadassana) mà là hợp thế (lokiya)” và (c) duyên đầy đủ của tri kiến như thực về các pháp là “Chánh định (sammāsamādhi)” mà gồm có bốn thiền hợp thế (lokiya) phải đi trước thiền siêu thế (lokuttara), dù được nhìn nhận bằng cách định căn (samādhindriya) như trong trường hợp hiện tại, hoặc bằng cách chánh định của đạo (magga sammāsamādhi) hoặc bằng cách định lực (samādhibala) v.v…
19. Lại nữa, Tâm thanh tịnh là “sự thuần thục hoàn toàn tám thiền chứng, là nhân gần của quán”. Quán có hai loại “quán yếu (taruna vipassanā)” là “tri kiến như thực về các pháp (yathābhūtañāṇadassana)” cũng dịch là “biết và thấy các hiện tượng như thực” và “quán mạnh (balava vipassanā)” là “yếm ly (nibbida)” cũng dịch là “nhàm chán”. Đây là hai chứng đắc cao nhất của hành giả trong hợp thế. Trước quán này khi vị ấy tu tập chánh định hợp thế (sammāsamādhi) mà gồm có bốn thiền, hành giả kết nối phần hợp thế của đạo thuộc về “cái chuỗi pháp tất nhiên” cũng gọi là duyên khởi siêu thế (lokuttarā paṭiccasamuppāda), bởi vì nó ra khỏi hợp thế chỉ để lao vào siêu thế, do vậy sự chuyển hành giả từ trạng thái phàm phu (puthujjana) xuyên qua bảy giai đoạn hữu học (sekha) đến giai đoạn cuối cùng của bậc vô học (asekha) - bậc A la hán (araha) .

Nhưng trước đạo thuộc về cái chuỗi pháp tất nhiên này, sau khi đưa vị ấy đến sự chứng đắc hợp thế cao nhất, tức là yếm ly (nibbidā), có thể dẫn vị ấy dự phần vào đạo của những bậc thánh với sự chứng đắc giai đoạn kế tiếp, tức là ly tham (virāga) mà là đạo thứ nhất (magga), Thế Tôn nhấn mạnh tầm quan trọng lớn lao của chứng đắc này bằng cách tuyên bố rằng hành giả ở giai đoạn này, dù còn là một phàm phu đi nữa (puthujjana), cũng đáng lễ bái thích đáng như đối với các bậc thánh.

Phật ngôn ‘Này chư tỳ kheo, chín người này đáng dâng tặng, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng kính lễ, là phước điền vô thượng ở đời. Chín là gì? Bậc A la hán, người đang thực hành để thực chứng quả A la hán, bậc bất lai, người đang thực hành để thực chứng quả bất lai, bậc nhất lai, người đang thực hành để thực chứng quả nhất lai, bậc dự lưu, người đang thực hành để thực chứng quả dự lưu và bậc chuyển tánh”. (47)

Chú giải có lời giải thích: “Chuyển tánh (gotrabhū) = có đỉnh cao của chứng đắc trong quán mạnh (balava vipassanā) với duyên vô gián cho sự chứng đạo dự lưu”. (48)

Giờ đây hành giả, vượt qua hợp thế, tu tập ở giai đoạn kế tiếp là ly tham (virāga) mà là đạo (magga) nơi mà thiền (jhāna) của (a) định căn (samādhindriya), (b) định lực (samādhibala) và (c) chánh định (sammāsamādhi) sinh khởi.

20. Cũng trong hợp thế sinh khởi thiền của (a) chánh định (sammāsamādhi), (b) tâm thanh tịnh (cittavisuddhi) mà gồm có “thuần thục hoàn toàn tám thiền chứng, là nhân gần của quán (vipassanāya padaṭṭhānabhūta aṭṭha paguṇa-samāpattiyo)” và (c) định (samādhi) là uẩn thứ hai, tức là định uẩn trong ba uẩn mà bao gồm bát thánh đạo.

Ở đây “giới = giới có bốn chi thanh tịnh; định = tám thiền chứng là cơ sở của quán (vipassanāpādaka aṭṭha samāpattiyo, tuệ = trí hợp thế và trí siêu thế” . (xem phần 8 ở trên).

21. Trong phần 10 ở trên cho thấy rằng (a) thiền (jhāna) hợp thế phát sinh khi một trong ba mươi đề mục quán sát “có khả năng tạo ra thiền cùng với an chỉ” được tu tập và (b) thiền siêu thế phát sinh khi quán được tu tập bằng cách làm cho từ bỏ các hành(saṅkhatavossagga), hoặc Niết bàn (nibbāna), là đối tượng (nibbānarammana).

Phát biểu này của Saddhammappakāsinī, (chú giải Paṭisambhidāmagga), tìm thấy sự xác nhận trong hai kinh sau đây: (1) “Này chư tỳ kheo, thánh đệ tử, sau khi làm cho từ bỏ đối tượng, có được định, có được nhất tâm. Này chư tỳ kheo, đây được gọi là định căn”. (49).

Kinh trước dùng những từ tương tự này để diễn tả định căn và thêm rằng định hoặc nhất tâm như vậy có được gồm có bốn thiền (jhāna) . (50)

Chú giải có lời giải thích: “Sau khi làm cho ‘từ bỏ’ đối tượng = sau khi làm cho niết bàn là đối tượng … Trong kinh này tín căn, niệm căn và tuệ căn là phần trước (pubbabhāgāni); tấn căn là hỗn hợp; định căn được tạo ra nói về siêu thế mà thôi”. (51)

22. Giờ đây phần đi trước có thể được tóm tắt như vầy: Thiền hợp thế (lokiya) (i) bằng cách chánh định (sammāsamādhi) là duyên tròn đủ (upanisa), (ii) bằng cách tâm thanh tịnh (cittavisuddhi) là nhân gần (padaṭṭhāna), và (iii) bằng cách uẩn thứ hai trong ba uẩn trong đó bát chi đạo được bao gồm là cơ sở (pādaka) của quán.

Quán này là tri kiến như thực về các pháp (yathābhūtañāṇadassana) là quán yếu (tarunavipassanā) vốn là duyên tròn đủ của quán mạnh (balava vipassanā). Quán sau này cũng được gọi là yếm ly (nibbidā) là duyên tròn đủ của ly tham (virāga) mà là đạo (magga). Trong nhiều pháp có mặt ở giai đoạn siêu thế đầu tiên này là ba pháp sau đây: (i) định căn (samādhindriya), (ii) định lực (sammāsamādhi), và (iii) chánh định (sammāsamādhi), tất cả trong số đó là thiền (jhāna) siêu thế (lokuttara).

Như vậy thiền hợp thế (lokiya) luôn luôn đi trước thiền siêu thế (lakuttara) theo các Kinh và các Chú giải.

Lại nữa (1) Chúng ta đã thấy trong phần 3 ở trên rằng Bồ tát (Bodhisatta) mở đầu quán sát pháp, đề cập đến thiền hợp thế thứ nhất mà ngài đã chứng vào thời thơ ấu như vầy: “Thực vậy, đây là con đường giác ngộ”: (ii) Kinh sau đây dạy: “Cũng như sông Hằng chảy về, nghiêng về, hướng về phương đông, một tỳ kheo cũng vậy, do tu tập và thực hành bốn thiền, chảy về, nghiêng về, hướng về Niết bàn”. (52)
--------
CHÚ THÍCH

44. A. V. 312-13: … Iti kho bhikkhave virāgo vimuttiñāṇadassanattho vimuttiñāṇadassanānisaṃso, nibbidā virāgatthā virāgānisaṃsā, yathābhūtañāṇadassanaṃ nibbidatthaṃ nibbidānisaṃsaṃ, samādhi yathābhūtañāṇadassanattho yathābhūtañāṇadassanānisaṃso, sukhaṃ samādhatthaṃ samādhānisaṃsaṃ, passaddhi sukhatthā sukhānisaṃsā, pīti passaddhatthā passaddhānisaṃsā, pāmojjaṃ pītatthaṃ pītānisaṃsaṃ, avippaṭisāro pāmojjattho pāmojjānisaṃso, kusalāni sīlāni avippaṭisāratthāni avippaṭisārānisaṃsāni. Iti kho bhikkhave dhammā dhamme abhisandenti, dhammā dhamme paripūrenti apārā pāraṃ gamanāyā’ti.

45. S.V.377: Idha pana, mahānāma ekacco puggalo na heva kho Buddhe aveccappasādena samannāgato hoti na Dhamme na Saṅghe na hāsapañño na javanapañño na ca vimuttiyā samannāgato, Api cassa ime dhammā honti, saddhindriyaṃ vīriyindriyaṃ satindriyaṃ samādhindriyaṃ paññindriyaṃ. Tathāgatappaveditā cassa dhammā paññāya mattaso nijjhānaṃ khamanti. Ayampi kho mahānāma, puggalo agantā nirayaṃ agantā tiracchānayoniṃ agantā pettivisayaṃ agantā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ. Idha pana mahānāma ekacco puggalo na heva kho Buddhe aveccappasādena samannāgato hoti na Dhamme na Saṅghe, na hāsapañño na javanapañño na ca vimuttiyā samannāgato, api cassa ime dhammā honti saddhindriyaṃ…paññindriyaṃ Tathāgate cassa saddhāmattaṃ hoti pemamattaṃ. Ayampi kho mahānāma puggalo agantā nirayaṃ agantā tiracchānayoniṃ agantā pettivisayaṃ agantā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ.

46. Spk. III, 288: Mattaso nijjhānaṃ khamantīti pamāṇena ca olokanaṃ khamanti. Iminā dhammānusārimaggaṭṭhapuggalaṃ dasseti …. Saddhāmattaṃ pemamattanti, iminā saddhānusārimaggaṭṭhapuggalaṃ dasseti.

47. A. Iv, 373: Navayime bhikkhave puggalā āhuneyyā pāhuneyyā dakkhiṇeyyā añjalikaraṇīyā anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa. Katame nava? Arahā, arahattāya paṭipanno, anāgāmī, anāgāmiphalasacchikiriyāya paṭipanno, sakadāgāmī, sakadāgāmiphalasacchikiriyāya paṭipanno, sotāpanno, sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipanno, gotrabhū.

48. Mp. (Sinh. ed), 791: gotrabhūti sotāpattimaggassa anantarapaccayena sikhāpattabalavavipassanācittena samannāgato.

49. S. V, 200: Idha bhikkhave ariyasāvako vossaggārammaṇaṃ karitvā labhati samādhiṃ labhati cittassa ekaggataṃ. Idaṃ vuccati bhikkhave samādhindriyaṃ.

50. S. v, 198: Idha bhikkhave ariyasāvako vossaggārammaṇaṃ karitvā labhati samādhiṃ labhati cittassa ekaggataṃ. So vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. ... Sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā … catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Idaṃ vuccati bhikkhave samādhindriyaṃ.

51. Spk, III, 234: Vossaggārammaṇaṃ katvāti, nibbānārammaṇaṃ katvā…. Imasmiṃ sutte saddhāsatipaññindriyāni pubbabhāgāni, vīriyindriyaṃ missakaṃ, samādhindriyaṃ nibbattitalokuttarameva kathitaṃ.

52. S.V. 307-8: Seyyathāpi bhikkhave gaṅgā nadī pācīnaninnā pācīnapoṇā pācīnapabbhārā, evameva kho bhikkhave bhikkhu cattāro jhāne bhāvento cattāro jhāne bahulīkaronto nibbānaninno hoti nibbānapoṇo nibbānapabbhāro.
--------
Người dịch ghi chú:

Spk = Sāratthappakāsinī (chú giải Saṃyutta Nikāya)

A= Aṅguttara Nikāya

Mp. (Sinh. ed) = Manorathapūraṇī (chú giải Aṅguttara Nikāya/ (ấn bản Sinhala)

S = Saṃyutta Nikāya
---------

SÁT NA ĐỊNH

Đáp Trả Phần Phản Bác II-III

Tác Giả: KHEMINDA THERA (Tích Lan)

23. Xét thấy nhóm bằng chứng này được cung cấp trong các Kinh và các Chú giải, khi Ven. Ñāṇuttara Sayādaw nói “Đức Phật không nói rằng chỉ những ai chứng thiền hợp thế (Lokiya-jhāna) mới có thể chứng định căn (Samādhindriya) và cũng không nói rằng chỉ những người chứng thiền mới có thể chứng thánh vị (Ariyabhūmi)”, điều đó là vô nghĩa.

Đặc biệt vô nghĩa khi chúng ta xem xét đoạn văn sau đây từ kinh được trích dẫn trong phần 4 ở trên: “Khi không có chánh định, trong người mà thiếu chánh định, duyên tròn đủ của tri kiến như thực về các pháp bị diệt; khi không có tri kiến như thực về các pháp, trong người mà thiếu tri kiến như thực về các pháp, duyên tròn đủ của yếm ly - ly tham bị diệt; khi không có yếm ly – ly tham, trong người mà thiếu yếm ly - ly tham, duyên tròn đủ của giải thoát tri kiến bị diệt”.

Kế đó kinh tiếp tục rằng điều ngược lại là chân chánh: “Khi có chánh định, người mà có chánh định, vị ấy có duyên tròn đủ của tri kiến như thực về các pháp” v.v… Nên nhớ rằng chánh định ở đây gồm có bốn thiền hợp thế. Giờ đây phát biểu này của kinh không phải là một trường hợp đơn độc. Kinh này được lặp lại nhiều lần với sự thay đổi vài chi tiết ở nơi khác trong Aṅguttara Nikāya.

Giờ đây kinh được thảo luận bắt đầu với những từ ng “Khi có niệm và tỉnh giác (satisampajaññe sati)”, một giai đoạn thứ hai bỏ qua giai đoạn này bắt đầu với giai đoạn kế tiếp: “Khi có hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi (hirottappe sati)", (53) một giai đoạn thứ ba và thứ tư bắt đầu với “người có giới hạnh (sīlavato)” và tiếp tục với “không có hối tiếc (avippatisāra)” (54), một giai đoạn thứ năm và thứ sáu, tức là hai kinh trước, chứa duyên khởi siêu thế đã được thảo luận trước đây. Chúng cũng bắt đầu với “người có giới hạnh” và tiếp tục với “không có hối tiếc (avippatisāra)”, (55) một giai đoạn thứ bảy và thứ tám bắt đầu với “người có giới hạnh” và tiếp tục thẳng đến “chánh định (sammāsamādhi)” (56), và giai đoạn thứ chín bắt đầu với “thu thúc các căn môn (indriyasaṃvara)” và tiếp tục với “giới (sīla)”. (57) Mỗi một trong những giai đoạn này hoàn toàn đi đến chánh định (sammāsamādhi) vốn là thiền hợp thế (lokiya jhāna), trải qua những giai đoạn hợp thế của tri kiến như thực về các pháp (yāthābhūtañāṇadassana) và yếm ly (nibbidā) trước khi đạt đến các thánh vị (ariyabhūmi) với sự chứng đạt ly tham (virāga).

Lời dạy này cũng được tìm thấy nơi khác, chẳng hạn, trong Saṃyutta Nikāya II: khổ (dukkha) là duyên tròn đủ của tín (saddhā) và tiếp tục với hân hoan (pāmojja) v.v… cho đến định (samādhi), tri kiến như thực về các pháp (yathābhūtañāṇadassana), yếm ly (nibbidā) và ly tham (virāga) mà là đạo (magga). (58)

24. Ven. Ñāṇuttara Sayādaw trích dẫn Paramatthamañjusā diễn tả người có cỗ xe thuần quán (suddhavipassanāyānika) là “người không chứng thiền, (ajhānalābhi)”. Tại sao Phụ chú giải làm thế là bởi vì, không giống như người có cỗ xe chỉ (samathayānika), người có cỗ xe thuần quán không nhập thiền và không xuất thiền (jhāna) để tu tập quán của thanh tịnh thứ ba.

Ở đây Ven. Sayādaw bỏ qua sự thực rằng ở thanh tịnh trước, tức là thanh tịnh thứ hai, là “nhân gần của quán”, cả người có cỗ xe Chỉ lẫn người có cỗ xe Quán tương lai đều đã tu tập thiền để hội đủ điều kiện tu tập quán ở thanh tịnh thứ ba.

Trong khi người có cỗ xe Chỉ lặp lại sự chứng thiền này ở thanh tịnh thứ ba, thì người có cỗ xe thuần quán không làm như thế. Do đó người có cỗ xe thuần quán được gọi một cách đúng đắn là “người không chứng thiền” khi thảo luận về sự tu tập quán; không phải cho rằng vị ấy đã không tu tập thiền (jhāna) trước đây.
Người có cỗ xe chỉ và người có cỗ xe quán không phải là hai loại hành giả xuất hiện bất ng sẵn sàng để tu tập quán. Họ là những người mà đã tự mình hội đủ điều kiện để tu tập quán với sự quan tâm và chuẩn bị, những chi phần trong đó là: niệm và tỉnh giác, hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, thu thúc các căn, giới, chánh định, mỗi một trong những chi phần này là cơ sở của chi phần kế tiếp. Chánh định, chúng ta đã thấy trong phần 4 ở trên, được định nghĩa là bốn thiền mà chú giải có lời giải thích là hợp thế trong phần trước và siêu thế trong phần sau.

Và chính thiền hợp thế này của phần trước là sự chứng đắc hội đủ điều kiện cuối cùng mà một hành giả phải có trước khi vị ấy có thể thực hiện việc tu tập quán. Với sự hội đủ điều kiện này vị ấy tự do quyết định là người có cỗ xe chỉ hoặc người có cỗ xe quán. Ở giai đoạn này, được xem xét bằng cách của ba uẩn, vị ấy đã tròn đủ định uẩn; và được xem xét bằng cách thanh tịnh, vị ấy đã tròn đủ thanh tịnh thứ hai.

25. Về các Oai nghi, Tỉnh giác, và Tứ đại, Ven. Ñāṇuttara Sayādaw lặp lại phát biểu của Ven. Mahāsī Sayādaw rằng “định của người chuyên tâm vào những bài thực tập này dứt khoát sẽ chỉ là sát na định”.

Khi được yêu cầu trích nguồn đáng tin cậy, vị ấy tạo ra hai đoạn văn, một đoạn từ Visuddhimagga và đoạn kia từ

chú giải Visuddhimagga. Đoạn Visuddhimagga là từ chương XI có nhan đề “Diễn tả về định …. Kết luận (samādhi-Niddesa)”.

Vì phương pháp thiền mới lờ đi thanh tịnh thứ hai bằng sự bỏ qua nó để tu tập quán, mặc dù thanh tịnh thứ hai này là “nhân gần của quán”. Nó cũng cần phải lờ đi chương này, vì các chương III đến XI chỉ đề cập đến định, hoặc Tâm thanh tịnh. Tính nhất quán đòi hỏi rằng nó cũng bỏ qua những chương này và không dựa vào bất cứ phát biểu nào được tìm thấy trong chúng để ủng hộ những lời dạy của phương pháp đó. Vả lại có lời quả quyết rằng định của người chuyên tâm vào những bài thực tập này “dứt khoát sẽ chỉ là sát na định” và điều này loại trừ những hình thức định khác. Do đó trong bài viết đầu tiên tôi trích dẫn Aṅguttara Sutta và chú giải mà dạy rằng định được chứng khi đi kinh hành qua lại kéo dài thời gian, đó là oai nghi đi, và rằng định đó là một trong tám thiền chứng. Trích dẫn điểm này để bày tỏ rằng mặc dù sát na định phát sinh trong những quán sát này, những hình thức định khác cũng phát sinh với sự tu tập những quán sát này.
26. Thú vị thay khi chú ý rằng Paramatthamañjūsā phân biệt giữa cận hành mà phát sinh với thiền (jhāna) và cận hành mà phát sinh không có thiền. Loại định thứ hai này được gọi là cận hành do giống nhau về tướng. Nếu có bất cứ lợi ích nào tích lũy với định này do sự giống nhau này, nó thuộc về người có cỗ xe Chỉ (samathayānika) và người có cỗ xe quán như được diễn tả trong Visuddhimagga, nhưng chắc chắn không thuộc về người có cỗ xe quán (vipassanāyānika) mà loại bỏ cận hành và thiền như được diễn tả trong phương pháp thiền mới của Ven. Mahāsī Sayādaw vì “cận hành không có thiền” cũng y như “cận hành có thiền” phát sinh trong lần đầu tiên chỉ khi nào đề mục thiền Chỉ (samatha) được tu tập. Trong trường hợp này nó, tức là cận hành không có thiền, phát sinh khi quán sát được gọi là xác định tứ đại (catudhātuvavaṭṭhāna) được tu tập. Loại cận hành này khởi lên trong mười đề mục thiền Chỉ (samatha) được nêu ra trong Visuddhimagga. (59)

27. Hơn nữa, “quán sát các Oai nghi, Tỉnh giác và Tứ đại” khởi lên trong tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna). Theo kinh và các chú giải, được nêu ra trong phần 1 (a) & (b) ở trên, không phải người sơ cơ được hội đủ điều kiện để tu tập tứ niệm xứ này mà không có trước tiên từ bỏ năm triền cái. Vị ấy phải từ bỏ năm triền cái để tu tập t niệm xứ. Tuy nhiên, phương pháp mới sẽ đòi hỏi vị ấy tu tập tniệm xứ để từ bỏ năm triền cái. Lần nữa đó là một trường hợp đặt chiếc xe trước con ngựa. Tuy nhiên đây là một lý do khác để gọi phương pháp này là mới.

28. Ven. Ñāṇuttara Sayādaw dường như bị tổn thương khi vị ấy nói “Khẳng định của Venerable Kheminda Thera rằng sát na định sinh lên sau khi chứng thiền dứt khoát là để chỉ trích phát biểu của Ven. Mahāsī Sayādaw trong The Progress of Insight rằng Suddha-Vipassanā-yānika (người có cỗ xe thuần quán) có thể chứng sát na định mà không có định cận hành - an chỉ trước.

Nhưng Ven. Kheminda Thera không lay chuyển thế đứng của Ven. Mahāsī Sayādaw mà được ủng hộ bởi các kinh văn Pāḷi, các Chú giải và các Phụ chú giải, trong đó được phát biểu rõ ràng rằng ‘một Samatha-yānika (người có cỗ xe Chỉ) chứng cận hành, an chỉ và Vipassanāyānika (người có cỗ xe quán) chỉ chứng sát na định”.

Trong việc ủng hộ lời xác nhận rằng người có cỗ xe quán chứng sát na định mà đối với vị ấy tạo ra Tâm thanh tịnh, Ven. Mahāsī Sayādaw trích dẫn trên trang 4 của luận đề này đoạn văn sau đây từ Paramatthamañjūsā (chú giải Visuddhimagga): “Sát na nhất tâm nghĩa là tâm định chỉ kéo dài trong một sát na. Đối với loại định đó cũng vậy, khi nó khởi lên không gián đoạn với đối tượng tương ứng của nó trong một hành tướng và không bị khắc phục bởi nghịch pháp, khắn khít tâm, không xao động như thể trong an chỉ”.

Về đoạn 1 này và ở cột 2, trang 7 trong bài báo đầu tiên của tôi vào tháng bảy, năm ngoái (i), rằng “vị ấy đề cập mà không có nhận thức ngụ ý, hoặc bất chấp nó, rằng cái đoạn mà vị ấy trích dẫn là ở trong sự giải thích chương liên quan với niệm hơi thở”, dùng những từ của vị ấy; (ii) rằng “độc giả biết rằng niệm hơi thở là một đề mục thiền Chỉ (samatha)’; (iii) rằng “ Thuần quán, tác giả xác nhận, không có dính dáng với thiền (jhāna); (iv) rằng hơn nữa đoạn này từ Paramatthamañjūsā không gì khác hơn là bình luận về chính đoạn này của Visuddhimagga được sao chép ở 3 (a) ở trên mà tuyên bố rằng sát na định khởi lên ‘vào thời gian quán xác thực’ được thực hiện bởi người chứng thiền mới xuất thiền”.

Tóm lại Ven. Mahāsī Sayādaw đã sáng tạo một đoạn Phụ chú giải trong việc ủng hộ phát biểu của vị ấy; nhưng đoạn Visuddhimagga mà đã được bình luận, phát biểu dứt khoát và rõ ràng rằng sát na định này phát sinh khi người chứng thiền tu tập quán sau khi xuất thiền. Ven. Mahāsī Sayādaw, bằng cú đá vào vật nhọn, tự làm đau mình và Ven. Ñāṇuttara Sayādaw chỉ trích tôi vì điều đó.

29. Ven. Ñāṇuttara Sayādaw bắt đầu phần thứ nhất của bài báo này bằng sự tuyên bố rằng tôi bị thôi thúc bởi thiên kiến. Tôi khẳng định với ông ấy rằng tôi chắc chắn bị thôi thúc, không phải bởi thiên kiến, nhưng bởi Catu Mahāpadesa Sutta của Thế Tôn. Giờ đây, đến phần cuối của bài báo, vị ấy nói trong lần thứ hai rằng tôi “bị thôi thúc bởi thiên kiến”. Lần này “liên quan đến bài giảng của U Sujata” và đây là cách vị ấy nói “điều mà Ven. Kheminda Thera bị thôi thúc bởi thiên kiến được cho thấy thêm bởi việc vị ấy nhắc đến bài giảng của U Sujāta, vị đệ t người Miến Điện và được công nhận là đại diện ở Tích Lan gần đây của Ven. Mahāsī Sayādaw. Vị ấy chỉ trích U Sujāta trên cơ sở của một bài tường thuật báo chí không hoàn chỉnh.

Chưa kể đến một thiền sư cao cấp như U Sujāta của trung tâm thiền Thathana Yeiktha danh tiếng ca Ven. Mahāsī Sayādaw Rangoon, dù một sa di (sāmaṇera) hoặc thậm chí một hành giả cư sĩ trung bình đều biết rằng bảy thanh tịnh phải được giải quyết theo trình tự thích hợp”.

Ở đây vị ấy nói rằng tôi chỉ trích U Sujāta “Trên cơ sở của một tường thuật báo chí không hoàn chỉnh”. Mặc dù trong ghi chú 10 trong bài báo đầu tiên tôi đã đề cập rằng bản dịch bài giảng xuất hiện trong "Kanduboda Vipassanā Bhavanā Magazine, 1956, trang 32” và không hề nói về một tường thuật báo chí, vị ấy bằng cách nào đó đã đến kết luận rằng nó là một tường thuật báo chí và không hoàn chỉnh ở đó.

Nơi đây là những sự thực, ấn bản này có khổ 7 in x 10 in và chứa 82 trang giấy chất lượng tốt; nó có 9 bức ảnh, bao gồm một của Ven. Mahāsī Sayādaw và một của U Sujāta; trang bìa có một bức tranh Đức Phật và xuất bản có giá 1.50 Rs. Trong số các bài báo khác, các bản dịch Sinhala có 31 bài giảng của U Sujāta được thuyết từ 25- 3-1956 đến 16-12- 1956, nó chứa 43 trang. Chủ bút nói rằng đây là những bài giảng của Ven. U Sujāta Thera, giải thích bằng tiếng Sinhala bởi ông Rerukane và được ghi lại bởi chủ bút. Ông ấy nói thêm rằng vì vậy có thể có những thiếu sót trong phần ghi chép này.

Giờ đây, chắc chắn không phải đây là “một tường thuật báo chí không hoàn chỉnh”. Hơn nữa, ông Rerukane rất thông thạo Pāḷi, tiếng Sinhala và tiếng Miến Điện; ông cũng đã học Pháp (Dhamma), sau khi là một thành viên lâu năm của Giáo hội. Cũng có thể được đề cập ở đây rằng ấn bản này đăng một bài báo về “Vipassanā” đặc biệt được viết bởi Ven.Mahāsī Sayādaw theo lời thỉnh cầu của chủ bút. Lại nữa, bài giảng này của U Sujāta bị chỉ trích trong một luận đề tiếng Sinhala có tựa là “Chỉ trích thiền Myanmar” do Venerable Paṇḍita Weligama Nararatana Mahā Thera viết và xuất bản năm 1959. Cho đến nay không có điều chỉnh hoặc đính chính nào được đưa ra bởi U Sujāta hoặc ông Rerukane, hoặc bởi chủ bút hoặc bất cứ ai khác.

Ven. Sayādaw xác nhận rằng phương pháp mới được ủng hộ bởi các kinh, các chú giải và các phụ chú giải, mà chúng ta đã thấy thực ra không phải như vậy, trái lại nó trực tiếp đi ngược lại chúng vốn dạy rằng Tâm thanh tịnh đi trước quán vì nó là “nhân gần” của quán, trong khi đó phương pháp mới dạy rằng nó đi theo sau quán. Chính là loại thái độ này và không phải của tôi, mà “bị thôi túc bởi thiên kiến”. Chỗ này có thể được tóm lược thích đáng trong những lời của Locke “Dẫu sao tất cả những công bố của vị ấy, nếu vị ấy không thể chịu nổi bất cứ phản đối nào về ý kiến công bố đó thì thậm chí không thể có đủ kiên nhẫn để lắng nghe, có quá ít xem xét và cân đo những lý luận ở phía khác, có phải vị ấy rõ ràng không thú nhận đó là thiên kiến mà điều khiển vị ấy?”.

Cũng nhắc đến đến “thiền sư cao cấp” và “Thathana Yeiktha danh tiếng, ở Rangoon”. Ái chà, có gì là cao cấp và danh tiếng không khi lời dạy của các kinh, các chú giải và các phụ chú giải “phù hợp với các kinh” bị coi thường? Ven. Sayādaw nói rằng “một sa di hoặc thậm chí một hành giả cư sĩ trung bình đều biết rằng bảy thanh tịnh phải được giải quyết theo trình tự thích hợp”.

Điều kỳ lạ về cái kiến thức rất thông thường này là khi cần ứng dụng nó, chính Ven. Mahāsī Sayādaw lại chóng quên nó. Trong luận đề của ngài những tên của các thanh tịnh mặc dù được nêu ra theo trình tự thích hợp thì lại không “được giải quyết theo trình tự thích hợp”, Vì ở đây một vấn đề nghiêm trọng phát sinh đối với phương pháp mới mà đòi hỏi hành giả phải có, sau khi đã tu tập thanh tịnh thứ nhất, bỏ qua thanh tịnh thứ hai để tu tập thanh tịnh thứ ba.

Visuddhimagga và các chú giải định nghĩa Tâm thanh tịnh là (a) “tám thiền chứng cùng với cận hành”, (b) “thuần thục hoàn toàn tám thiền chứng, là nhân gần của quán”, và chương III đến XI của Thanh tịnh đạo chỉ bàn đến 40 đề mục thiền Chỉ (samatha). Điều này là rõ ràng theo đường lối của phương pháp thiền mới mà dạy rằng Tâm thanh tịnh phát sinh bằng cách sát na định khi quán đang được tu tập. Ven. Mahāsī Sayādaw, có thừa khả năng đối phó với trường hợp đó, biết một lối thoát. Ngài sẽ thực hiện một cuộc giải phẫu trên Tâm thanh tịnh vốn là thiền Chỉ (samatha). Có nhiều quán (vipassanā) có sẵn trong Kiến thanh tịnh.Tại sao ngài có thể ghép vào một ít về điều này với Tâm thanh tịnh bằng sát na định và đây là những gì vị ấy làm.

Giờ đây, nếu bất cứ ai hoài nghi hãy xem ngài đề cập đến trang 2 của The Progress of Insight dưới đầu đề “II Tâm thanh tịnh”, ở đấy sự mô tả bắt đầu với quán (vipassanā) dưới đầu đề phụ đầu tiên “ (a) Phương pháp quán tóm tắt” mà sau gần hai trang hướng dẫn về quán, nhường chỗ cho đầu đề phụ thứ hai “(b)Tâm thanh tịnh” chứa hai trang chi tiết về phương pháp thiền mới liên quan với sự chuyển động của bụng. Từ quá trình này, nó được xác nhận, cho kết quả là loại Tâm thanh tịnh mới lạ này bằng cách sát na định. Ven. Mahāsī Sayādaw chắc thừa biết “trình tự thích hợp” của các thanh tịnh, nhưng trong sự tu tập chúng ngài cản trở trình tự đó và những nội dung của cả Tâm thanh tịnh lẫn Kiến thanh tịnh.
-------
CHÚ THÍCH

53. A. IV, 99
54. A. V, 4: 314
55. A. V, 1-6
56. A. III, 20; 200
57. A. III, 360
58. S. II, 32:
Dukkhūpanisā saddhā, saddhūpanisaṃ pāmojjaṃ, pāmojjūpanisā pīti, pītūpanisā passaddhi, passaddhūpanisaṃ sukhaṃ, sukhūpaniso samādhi, samādhūpanisaṃ yathābhūtañāṇadassanaṃ, yathābhūtañāṇadassanūpanisā nibbidā, nibbidūpaniso virāgo, virāgūpanisā vimutti…

59. Vis. Mag. III: Upacārappanāvahatoti ṭhapetvā kāyagatāsatiñca ānāpānassatiñca avasesā aṭṭha anussatiyo, āhāre paṭikūlasaññā, catudhātuvavatthānanti imān’eva h’ettha dasakammaṭṭhānāni upacāravahāni. Sesāni appanāvahāni. Evaṃ upacārappanāvahato.

Correction
In the July 1967 issue, page 339 col. 1, line 23, insert "before, not" "after" "occurs", and insert a comma after "at".
---------
Người dịch ghi chú:

Thánh vị (Ariyabhūmi): Cấp độ của bậc Thánh, lĩnh vực của bậc thánh.
----------

 

SÁT NA ĐỊNH

Đáp Trả Phần Phản Bác II-IV

Tác Giả: Kheminda Thera (Tích Lan)

Ven.
Ñāṇuttara Sayādaw nói “Các kinh văn Pāḷi, các Chú giải và các Phụ chú giải đã giải thích cả Samatha-yānika (người có cỗ xe chỉ) lẫn Vipassanā-yānika (người có cỗ xe quán). Cả hai phương pháp chắc chắn không mới”. Tôi hoàn toàn đồng ý với phát biểu này. Lại nữa vị ấy nói “Ven. Mahāsī  viết: “The Progress of Insight, một luận đề về phương pháp quán, dựa vào những kinh nghiệm cá nhân của ngài cũng như những kinh nghiệm của một số lớn các hành giả, những sở đắc mà hoàn toàn phù hợp với các Kinh điển, các Chú giải và các Phụ chú giải là những văn bản có nguồn đáng tin cậy nhất”.

Phát biểu này không phù hợp với cơ sở lập luận vì, như chúng ta đã thấy, luận đề này dạy: (i) Vipassanāyānika bỏ qua Tâm thanh tịnh để tu tập quán, trong khi đó Visuddhimagga, một “chú giải có nguồn đáng tin cậy nhất” dạy rằng vị ấy tròn đủ Tâm thanh tịnh để tu tập quán ở Kiến thanh tịnh; (ii) Tâm thanh tịnh phát sinh khi quán đang được tu tập, trong khi đó Sumaṅgala-Vilāsinī (chú giải Dīgha Nikāya ), là một “chú giải khác có nguồn đáng tin cậy nhất” nói rằng Tâm thanh tịnh là “nhân gần của quán”;

(iii) Tâm thanh tịnh gồm có sát na định, trong khi đó (a) Visuddhimagga dạy rằng nó gồm có “tám thiền chứng cùng với cận hành”, (b) Sumaṅgala-Vilāsinī và Saddhammappakāsinī có lời giải thích thêm, dạy rằng nó gồm có “thuần thục hoàn toàn tám thiền chứng, là nhân gần của quán”; và (iv) “khi giới thanh tịnh đã được thiết lập, hành giả đã chọn thuần quán làm cỗ xe nên tinh tấn quán sát danh sắc (nāmarūpa). Khi làm như thế, vị ấy nên quán sát theo những tướng của chúng, năm thủ uẩn” v.v…vốn là chức năng của Kiến thanh tịnh, trong khi đó Rathavinīta Sutta dạy “Giới thanh tịnh có mục đích là đưa đến Tâm thanh tịnh; Tâm thanh tịnh có mục đích là đưa đến Kiến thanh tịnh” v.v…

31. Venerable Ñāṇuttara Sayādaw tiếp tục “Nhân đây có thể được đề cập rằng một số đệ tử của Ven. Mahāsī Sayādaw chứng thiền (jhāna)”. Thực vậy ư! Điều đó dường như để chứng tỏ rằng họ đã đi chệch phương pháp thiền mới của vị ấy. Nhưng trong sự vắng mặt của nhiều thông tin không thể kết luận dứt khoát đã đạt đến thiền.
Cuối cùng tôi mong muốn cảm ơn Venerable Ñāṇuttara Sayādaw về thịnh tình khi nói rằng đó là “mong ước tha thiết” của vị ấy rằng “Venerable Kheminda Thera và những người cùng nhóm đừng tự mãn chỉ với kiến thức về phương pháp Samatha-yānika (người có cỗ xe chỉ) mà thôi nhưng thay vì thế hãy thực hành nó tích cực cho đến khi các vị chứng thiền cùng với thông (abhiññā) , cũng như ariyabhūmi (thánh vị). Cầu mong những nỗ lực của các vị được thành công mỹ mãn”.

Đồng thời tôi xin nhắc ông ấy rằng chính chúng tôi, tức là tôi và nhóm của tôi, và riêng chúng tôi mà ở trong một vị thế để quyết định phương pháp nào chúng tôi phải tu tập. Có vẻ như Venerable Sayādaw đang cố gắng dành riêng phương pháp vipassanāyānika (người có cỗ xe quán) cho chính mình và những người của nhóm vị ấy, trong khi sẵn sàng dành cho chúng tôi phương pháp khác.

Ông ấy không cần sử dụng những so đo như thế. Trong khi chúng tôi vui lòng để mặc ông và những người của nhóm ông, không những tuân theo phương pháp mới của họ mà còn ban phát nó cho bất cứ ai đang cần, chúng tôi cũng khẳng định cái quyền theo cái nào trong hai phương pháp được dạy trong Visuddhimagga.

Và nếu ở bất cứ thời gian nào chúng tôi tình cờ chọn vipassanāyāna, Venerable Sayādaw có thể vẫn tin chắc rằng chúng tôi sẽ không theo cách giải thích mới về vipassanāyāna của Venerable Mahāsī Sayādaw, vì trái với những hướng dẫn của các Kinh, các Chú giải và các Phụ chú giải, phương pháp đó dạy rằng Tâm thanh tịnh theo sau sự tu tập quán và nó gồm có sát na định.

Nhưng chúng tôi sẽ theo phương pháp như được nêu ra trong Visuddhimagga mà dạy rằng Tâm thanh tịnh gồm có “tám thiền chứng cùng với cận hành” mà luôn luôn đi trước sự tu tập quán cho cả samathayānika lẫn Vipassanāyānika.

32. Venerable Sayādaw nói về “chỉ có kiến thức mà thôi” mà nhắc nhở một trong những bình luận của Bhadanta ācariya Dhammapāla Thera trong Paramatthamañjūsā (chú giải Visuddhimagga) về Tâm thanh tịnh (cittavisuddhi) được đề cập ở phần đầu của Diṭṭhivisuddhi-niddesa trong Visuddhimagga (xem phần 9 (b) ở trên), như vầy: “Do chỉ có trí mà thôi người ta không được thiết lập trong Tâm thanh tịnh. Không có được thiết lập trong đó thì không thể hoàn thành thanh tịnh cao hơn” mà là Kiến thanh tịnh nơi mà quán bắt đầu. Tôi đã đề cập phát biểu này của Paramatthamañjūsā nhiều hơn một lần vì nó là cách để từ bỏ các triền cái mà không có nó không thể có sự tu tập tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna) hoặc quán.

Đây là một đòi hỏi mà tất cả phải tuân theo, không loại trừ các Sammāsambodhisatta (Bồ tát Toàn giác).Và những hướng dẫn của Đức Phật là “hãy tuyên bố lời dạy này thường xuyên cho chư tỳ khưu, tỳ kheo ni, nam cư sĩ và nữ cư sĩ để mà nếu có trong số họ bất cứ kẻ ngu nào có nghi ngờ và hoang mang về phương pháp giảng dạy của ta, sau khi nghe lời giải bày này, họ có thể từ bỏ những nghi ngờ và hoang mang của họ”, được nêu ra đầy đủ trong phần 1 (b) ở trên.

Hơn nữa, theo những hướng dẫn này của Đức Phật, chú giải Kiṃsuka Sutta được nêu ra trong phần 6 ở trên, qua tỷ dụ về dũng sĩ và đại thần có trí được nhận biết là thiền thứ nhất và quán một cách tương ứng, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc từ bỏ năm triền cái bằng thiền thứ nhất trước khi tu tập quán mà, nếu không được trợ giúp bởi thiền thứ nhất là bất lực trước một tâm bị chướng ngại bởi năm triền cái.

33. Trong kinh sau đây Đức Phật tuyên bố năm triền cái là gì và tại sao chúng nên được từ bỏ.

“Này chư tỳ kheo, dục tham là một trở ngại (āvaraṇo), một triền cái (nīvaraṇo); sân là một trở ngại, một triền cái, hôn trầm - thụy miên là một trở ngại, một triền cái, trạo cử - hối tiếc là một trở ngại, một triền cái và nghi là một trở ngại, một triền cái”.

“Này chư tỳ kheo, có năm trở ngại và triền cái mà sinh trưởng khắp nội tâm và làm suy yếu trí tuệ … Này chư tỳ kheo, chắc chắn một tỳ kheo không có từ bỏ năm trở ngại và triền cái này mà sinh trưởng khắp nội tâm và làm suy yếu trí tuệ, với trí tuệ yếu đuối và suy yếu (như vậy), sẽ biết lợi ích của mình, lợi ích của người khác hoặc của cả hai và thực chứng tri kiến thù thắng phù hợp với các bậc thánh, thuộc siêu nhân pháp là không thể xảy ra”.

Này chư tỳ kheo, chắc chắn một tỳ kheo, sau khi từ bỏ năm trở ngại và triền cái này mà sinh trưởng khắp nội tâm và làm suy yếu trí tuệ, với trí tuệ vững mạnh (như vậy) sẽ biết lợi ích của mình, của người khác, hoặc lợi ích của cả hai và thực chứng tri kiến thù thắng phù hợp với các bậc thánh, thuộc siêu nhân pháp là có thể xảy ra”. (60)
Chú gi
i có lời giải thích: “Sinh trưởng khắp nội tâm” (cetaso ajjhāruhā) = sinh trưởng khắp nội tâm (như cây tầm gửi làm nứt và tắt nghẽn sự phát triển của cội cây); làm suy yếu trí tuệ = theo nghĩa ngăn sự phát sinh của tuệ quán (vipassanāpaññā) và đạo tuệ.
“Yếu đuối = trạng thái bị bao phủ trong năm triền cái (pañcanīvaraṇapariyonaddhattā) với sức mạnh bị tống khứ (apagatabalāya). Tri kiến thù thắng phù hợp với các bậc thánh thuộc siêu nhân pháp = tri kiến thù thắng có thể thực chứng trạng thái của các bậc thánh thuộc siêu nhân pháp, tức là vượt qua mười thiện nghiệp đạo (dasa kusalakammapatha.)” (61)

Nói cách khác, năm trở ngại và triền cái sinh trưởng khắp nội tâm, làm yếu ớt và suy yếu tâm theo cách mà một cây tầm gửi làm nứt và bóp nghẹt sự phát triển của cội cây, chúng ngăn sự phát sinh của (i) tuệ quán (vipassanāpaññā) hợp thế gồm có (a) tri kiến như thực về các pháp (yathābhūtañāṇadassana), cũng được gọi là quán yếu (tarunavipassanā) và (b) yếm ly (nibbidā) cũng được gọi là quán mạnh (balavavipassanā) và đạo tuệ (maggapaññā) siêu thế mà là ly tham (virāga). Hơn nữa, chúng làm suy yếu bất cứ trí tuệ còn lại bằng cách chính chúng bao phủ và bóp chết trí tuệ. Như vậy, “với sức mạnh bị tống kh”, người ta không thể biết “lợi ích của mình, lợi ích của người khác, hoặc lợi ích của cả hai” và không thể làm phát sinh cao hơn ‘nhân pháp gọi là mười thiện nghiệp đạo (dasa kusala-kammapatha)”, không thực chứng ‘tri kiến thù thắng phù hợp các bậc thánh”.

Theo Saṅgīti Sutta “Mười thiện nghiệp đạo là (1) tránh xa sát sanh, (2) tránh xa trộm cắp, (3) tránh xa tà hạnh trong các dục, (4) tránh xa nói dối, (5) tránh xa nói lời chia rẽ, (6) tránh xa ác khẩu, (7) tránh xa nói lời vô ích , (8) không tham, (9) không ác ý, (10) chánh kiến”. (61 a.)
Tóm lại, không thể có tiến bộ nào ngoài mười thiện nghiệp đạo này cho đến khi người ta từ bỏ năm triền cái này; không có sự chứng quán (vipassanā) và b
ởi thế, không có sự chứng đạo (magga).

Nhưng điều trái lại là có thể. Với năm triền cái được từ bỏ, và do vậy “với tuệ kiên cường”, người ta có thể “biết lợi ích của mình, lợi ích của người khác hoặc lợi ích của cả hai và thực chứng tri kiến thù thắng phù hợp với các bậc thánh”, bằng cách “vượt qua nhân pháp được gọi là mười thiện nghiệp đạo” với sự chứng tuệ quán (vipassanāpaññā) và tuệ đạo (maggapaññā).

34. Thế Tôn bắt đầu kinh niệm xứ (Satipaṭṭhāna Sutta) với những lời này “Này chư tỳ kheo, con đường thanh tịnh duy nhất cho chúng sanh, khắc phục sầu não, diệt tr khổ ưu, tìm thấy chánh đạo và đạt đến Niết bàn là con đường này, tức là tứ niệm xứ”.

“Bốn là gì? “ Này chư tỳ kheo, ở đây một tỳ kheo thực hành quán thân trên thân, trú tinh cần, tnh giác và chuyên niệm, sau khi từ bỏ tham và ưu về thế giới; thực hành quán thọ trên thọ, trú tinh cần, tnh giác và chuyên niệm, sau khi từ bỏ tham và ưu về thế giới; thực hành quán tâm trên tâm, trú tinh cần, tỉnh giác và chuyên niệm, sau khi từ bỏ tham và ưu về thế giới; hoặc thực hành quán pháp trên các pháp, trú tinh cần, tỉnh giác và chuyên niệm, sau khi từ bỏ tham và ưu về thế giới”. (62+)
Xin lưu ý nơi đây rằng người ta phải thực hành mỗi niệm xứ “sau khi từ bỏ tham và ưu”. Và đây là cách giải thích những từ này theo chú giải “tham nghĩa là dục tham, và ưu nghĩa là sân. Vì dục tham và sân là những triền cái chính nên sự từ bỏ các triền cái được phát biểu theo cách từ bỏ tham và ưu”. (63++)

Như vậy trong Kinh Niệm xứ (Satipaṭṭhāna Sutta ), cũng có chuẩn bị cho việc từ bỏ năm triền cái trước khi tu tập tứ niệm xứ. Tuy nhiên, trong việc giải thích quán pháp (cũng dịch quán các đối tượng tâm), chú giải nói rằng năm triền cái bị “loại trừ” và “không thể phát sinh trong tương lai” với sự chứng ngộ bốn đạo. Điều này được chứng đắc dần dần như vầy: (i) “Dục tham được loại trừ bởi sáu pháp này trở thành không thể phát sinh trong tương lai nhờ chứng A la hán đạo”; (64++)

(ii) “Tuy nhiên, sân bị loại trừ bởi sáu pháp này, cuối cùng bị diệt do chứng ngộ A na hàm đạo”. (65++)

(iii) “Hôn trầm - thụy miên bị loại trừ bởi sáu pháp này, chúng chấm dứt phát sinh vĩnh viễn trong tương lai do chứng A la hán đạo”; (66++) (iv) “Trạo cử (cũng dịch là xao động, phóng tâm) bị loại trừ bởi sáu pháp này cuối cùng chấm dứt phát sinh trong tương lai nhờ chứng A la hán đạo và hối (cũng dịch là bất an) bị loại trừ bởi sáu pháp này cuối cùng chấm dứt phát sinh trong tương lai nhờ chứng A na hàm đạo”; (67++)

(v) “Nghi (cũng dịch là hoài nghi) bị loại trừ bởi sáu pháp này không bao giờ phát sinh trong tương lai chỉ khi nào nó bị diệt do chứng dự lưu đạo”. (68++)

35. Việc sinh khởi được phát biểu theo những cách khác trong kinh sau đây như vầy “Này chư tỳ kheo, một tỳ kheo mà đã từ bỏ năm chi phần và năm chi phần được gọi trong pháp và luật này là người hoàn thành trọn vẹn (kevalī), toàn hảo (vusitavā) và tối thượng nhân (uttamapuriso).

‘Này chư tỳ kheo, thế nào một tỳ kheo là người từ bỏ năm chi phần?

“Này chư tỳ kheo, ở đây một tỳ kheo đã từ bỏ dục tham, sân, hôn - thụỵ, trạo - hối, và nghi. Này chư tỳ kheo, như vậy là một tỳ kheo đã từ bỏ năm chi phần”.
“Này chư tỳ kheo, thế nào là một tỳ kheo có năm chi phần?”

“Này chư tỳ kheo, ở đây một tỳ kheo có giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn , giải thoát uẩn , giải thoát tri kiến uẩn”. (69)
S
ự từ bỏ năm triền cái cuối cùng và dứt khoát xảy ra ở đây ở mức độ cao nhất. Vì sự từ bỏ đó đi trước tứ niệm xứ là tạm thời, các triền cái có khả năng phát sinh lần nữa khi các yếu tố đối nghịch vắng mặt. Do đó khi chúng tình cờ phát sinh lần nữa chúng được coi là bằng cách của sự hiện hữu (santaṃ) và khi vắng mặt chúng được coi là bằng cách của sự không hiện hữu (asantaṃ), trong phần quán pháp (cũng dịch là quán các hiện tượng).
----------
CHÚ THÍCH

60. A. III, 63-64: Pañc’ime bhikkhave āvaraṇā nīvaraṇā cetaso ajjhāruhā paññāya dubbalīkaraṇā. Katame pañca? Kāmacchando bhikkhave āvaraṇo nīvaraṇo cetaso ajjhāruho paññāya dubbalīkaraṇo, byāpādo bhikkhave āvaraṇo nīvaraṇo cetaso ajjhāruho paññāya dubbalīkaraṇo. Thinamiddhaṃ bhikkhave āvaraṇaṃ nīvaraṇaṃ cetaso ajjhāruhaṃ paññāya dubbalīkaraṇaṃ. Uddhaccakukkuccaṃ bhikkhave āvaraṇaṃ nīvaraṇaṃ cetaso ajjhāruhaṃ paññāya dubbalīkaraṇaṃ. Vicikicchā bhikkhave āvaraṇā nīvaraṇā cetaso ajjhāruhā paññāya dubbalīkaraṇā. Ime kho bhikkhave pañca āvaraṇā nīvaraṇā cetaso ajjhāruhā paññāya dubbalīkaraṇā.

So vata bhikkhave bhikkhu ime pañca āvaraṇe nīvaraṇe cetaso ajjhāruhe paññāya dubbalīkaraṇe appahāya, abalāya paññāya dubbalāya attatthaṃ vā ñassati paratthaṃ vā ñassati ubhayatthaṃ vā ñassati uttariṃ vā manussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ sacchikarissatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.

So vata bhikkhave bhikkhu ime pañca āvaraṇe nīvaraṇe cetaso ajjhāruhe paññāya dubbalīkaraṇe pahāya, balavatiyā paññāya attatthaṃ vā ñassati paratthaṃ vā ñassati ubhayatthaṃ vā ñassati uttariṃ vā manussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ sacchikarissatīti ṭhānametaṃ vijjati

61. Mp. III, 256: Ceto ajjhāruhantīti cetaso ajjhāruhā. Vipassanāpaññañca maggapaññañca uppattinivāraṇaṭṭhena dubbalaṃ karontīti paññāya dubbalīkaraṇā. Yā vā etehi saddhiṃ vokiṇṇā paññā uppajjati taṃ dubbalaṃ karontītipi paññāya dubbalīkaraṇā. Abalāyāti pañcanīvaraṇapariyonaddhattā apagatabalāya. Uttari vā manussadhammā alamariyañāṇadassanavisesanti dasakusalakammapathasaṅkhātā manussadhammā uttari ariyabhāvaṃ kātuṃ samatthaṃ ñāṇadassanavisesaṃ.

61a. D. III, 269: Dasa kusalakammapathā – pāṇātipātā veramaṇī, adinnādānā veramaṇī, kāmesumicchācārā veramaṇī, musāvādā veramaṇī, pisuṇāya vācāya veramaṇī, pharusāya vācāya veramaṇī, samphappalāpā veramaṇī, anabhijjhā, abyāpādo, sammādiṭṭhi.

62. M. I, 55-56: Ekāyano ayaṃ bhikkhave maggo sattānaṃ visuddhiyā sokaparidevānaṃ samatikkamāya dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya, ñāyassa adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya yadidaṃ cattāro satipaṭṭhānā, katame cattāro: Idha bhikkhave bhikkhu kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ; vedanāsu vedanānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ, citte cittānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ, dhammesu dhammānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ. + Soma Thera's translation in Foundations of Mindfulness, Free Publications Society, Colombo 1955. (+ bản dịch Tứ niệm xứ của Soma Thera …)

63. Ps. I. 244: Yasmā pan’ettha abhijjhāgahaṇena kāmacchando, domanassaggahaṇena byāpādo saṅgahaṃ gacchati, tasmā nīvaraṇapariyāpanna, balavadhammadvayadassanena nīvaraṇappahānaṃ vuttaṃ hotīti veditabbaṃ. ++ Soma Thera's translation in The way of Mindfullness, published by Mrs. B.Moonesinghe, Colombo (1949). - (++ bản dịch The way of Mindfullness của Soma Thera…)

64. PS. I, 282: Imehi pana chahi dhammehi pahīnassa kāmacchandassa arahattamaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.

65. Ps. I, 283: Imehi pana chahi dhammehi pahīnassa byāpādassa anāgāmimaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.

66. Ps. I, 284: Imehi pana chahi dhammehi pahīnassa thinamiddhassa arahattamaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.

67. Ps. I, 285: Imehi pana chahi dhammehi pahīne uddhaccakukkucce uddhaccassa arahattamaggena kukkuccassa anāgāmimaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.

68. Ps. I, 286: Imehi pana chahi dhammehi pahīnāya vicikicchāya sotāpattimaggena āyatiṃ anuppādo hotīti pajānāti.

69. A. V. 16: Pañcaṅgavippahīno bhikkhave bhikkhu pañcaṅgasamannāgato imasmiṃ dhammavinaye ‘kevalī vusitavā uttamapuriso’ti vuccati. Kathañca bhikkhave bhikkhu pañcaṅgavippahīno hoti? Idha bhikkhave bhikkhuno kāmacchando pahīno hoti, byāpādo pahīno hoti, thinamiddhaṃ pahīnaṃ hoti, uddhaccakukkuccaṃ pahīnaṃ hoti, vicikicchā pahīnā hoti. Evaṃ kho bhikkhave bhikkhu pañcaṅgavippahīno hoti.

Kathañca bhikkhave bhikkhu pañcaṅgasamannāgato hoti? Idha bhikkhave bhikkhu asekhena sīlakkhandhena samannāgato hoti, asekhena samādhikkhandhena samannāgato hoti, asekhena paññākkhandhena samannāgato hoti, asekhena vimuttikkhandhena samannāgato hoti, asekhena vimuttiñāṇadassanakkhandhena samannāgato hoti. Evaṃ kho bhikkhave bhikkhu pañcaṅgasamannāgato hoti?

---------
Người dịch ghi chú:

Mp = Manorathapūraṇī (chú giải Aṅguttara Nikāya)

D. = Dīghanikāya

M = Majjhima Nikāya

Ps = Papañcasūdani (chú giải Majjhima Nikāya)
A = Aṅguttara Nikāya

Ariyabhūmi (thánh vị): Cấp độ của bậc Thánh, lĩnh vực của bậc Thánh.
--------
SÁT NA Đ ỊNH

Đáp Trả Phần Phản Bác II-V

Tác Giả: Kheminda Thera (Tích Lan)


Ở đây xin lưu ý rằng Netti Pakarana giải thích đoạn văn “ Tinh cần, tỉnh giác và chuyên niệm, sau khi từ b tham và ưu đối với thế giới” như vầy “Tinh cần = tấn căn. Tỉnh giác = tuệ căn. Chuyên niệm = niệm căn. Sau khi từ b tham và ưu đối với thế giới = định căn”. (70)

Chúng ta biết rằng định căn được bao gồm trong bốn thiền. Giờ đây, độc giả chắc đã lưu ý rằng các từ “Sau khi từ bỏ tham và ưu” đặt trực tiếp trước khi t niệm xứ được giải thích (a) về mặt tiêu cực, trình bày khía cạnh từ bỏ và b) về mặt tích cực, trình bày khía cạnh sở hữu. Sự từ bỏ là bỏ năm triền cái và sự sở hữu là có các chi phần của bốn thiền mà tạo thành định căn.

Và vì “Sự từ bỏ các triền cái bằng chế ng xảy ra trong người mà tu tập thiền thứ nhất”. (71) Thiền thứ nhất được nêu ra bởi những từ “Sau khi từ bỏ tham và ưu”. Hơn nữa, vì cận hành không thể được diễn tả là định căn, những từ này không đề cập đến sự từ bỏ các triền cái mà xảy ra trong cận hành, nhưng đề cập đến sự từ bỏ các triền cái mà xảy ra trong thiền; và thiền thứ nhất là sự chứng đạt thấp nhất mà có thể được diễn tả vừa là sự từ bỏ năm triền cái, vừa là sự sở hữu các chi thiền.
Kinh sau đây, không như các kinh khác bàn đến các niệm xứ được thảo luận cho đến nay, (a) diễn tả sự kiện, tức là sự có được điều kiện tiên khởi của tứ niệm xứ, không bàn đến mặt tiêu cực như sự từ bỏ, nhưng bàn đến mặt tích cực như sự chứng đạt, như vậy khẳng định sự giải thích được nêu ra trong Netti Pakarana; (b) phân loại những ai mà tu tập những niệm xứ thành ba nhóm, và (c) phát biểu chính xác tại sao họ tu tập chúng.

“Này chư tỳ kheo, những tỳ kheo đó, xuất gia không lâu, những người mới đến pháp và luật này, nên được khích lệ, khuyên nhủ và củng cố trong sự tu tập những niệm xứ. Bốn là như thế nào?

(Như vầy) ‘Hãy đến này các hiền giả, (a) tinh cần, tỉnh giác, chuyên tâm, với tâm hoàn toàn thanh tịnh, định tĩnh (samāhita), và nhất tâm (ekaggacitta), sống thực hành quán thân trên thân vì (mục đích chứng đạt) trí như thực về thân; (b) tinh cần, tỉnh giác, chuyên tâm, với tâm hoàn toàn thanh tịnh, định tĩnh và nhất tâm, sống thực hành quán thọ trên các thọ vì (mục đích chứng đạt)trí như thực về các thọ. (c) Tinh cần, tỉnh giác, chuyên tâm, với tâm hoàn toàn thanh tịnh, định tĩnh và nhất tâm, sống thực hành quán tâm trên tâm vì (mục đích chứng đạt) trí như thực về tâm ; (d) tinh cần, tỉnh giác, chuyên tâm, với tâm hoàn toàn thanh tịnh, định tĩnh và nhất tâm, sống thực hành quán pháp trên các pháp vì (mục đích chứng đạt) trí như thực về các pháp.

“Này chư tỳ kheo, những ai mà là những hữu học (sekhā) , với tâm không xao lãng, và mong mỏi sự giải thoát vô thượng thoát khỏi tất cả ách phược, họ cũng, (a) tinh cần, tỉnh giác, chuyên tâm với tâm hoàn toàn thanh tịnh, định tĩnh và nhất tâm, sống thực hành quán thân trên thân vì (mục đích  chứng đạt) toàn trí về thân. ; (b) tinh cần, tỉnh giác, chuyên tâm, với tâm hoàn toàn thanh tịnh, định tĩnh và nhất tâm, sống thực hành quán thọ trên các thọ vì (mục đích chứng đạt) toàn trí về các thọ; (c) tinh cần, tỉnh giác, chuyên tâm, với tâm hoàn toàn thanh tịnh, định tĩnh và nhất tâm, sống thực hành quán tâm trên tâm vì (mục đích chứng đạt) toàn trí về tâm; (d) tinh cần, tỉnh giác, chuyên tâm, với tâm hoàn toàn thanh tịnh, định tĩnh và nhất tâm, sống thực hành quán pháp trên các pháp vì (mục đích chứng đạt) toàn trí về các pháp.

“Này chư tỳ kheo, những ai mà là những bậc A la hán, đã diệt các lậu hoặc, đã toàn hảo, đã làm những gì cần phải được làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt đến mục đích, đã diệt trừ các hữu kiết sử và đã giải thoát do nhờ chánh trí, họ cũng (a) tinh cần, tỉnh giác, chuyên tâm, với tâm hoàn toàn thanh tịnh, định tĩnh và nhất tâm, sống thực hành quán thân trên thân ly tham thế giới về thân; (b) tinh cần, tỉnh giác, chuyên tâm, với tâm hoàn toàn thanh tịnh, định tỉnh và nhất tâm, sống thực hành quán thọ trên các thọ ly tham thế giới về các thọ (c) tinh cần, tỉnh giác, chuyên tâm, với tâm hoàn toàn thanh tịnh, định tĩnh và nhất tâm, sống thực hành quán tâm trên tâm ly tham thế giới về tâm; (d) tinh cần tỉnh giác, chuyên tâm, với tâm hoàn toàn thanh tịnh, định tĩnh và nhất tâm, sống thực hành quán pháp trên các pháp ly tham thế giới về các pháp”. (72)

Chú giải có lời giải thích “Chuyên tâm = được tập trung với sát na định. Định tĩnh, nhất tâm = nhất tâm khéo được thiết lập bằng cách cận hành và an chỉ định. Trong kinh này các niệm xứ được tu tập bởi các tân tỳ kheo (navaka-bhikkhūhi) cũng như bởi những người đã diệt các lậu hoặc (khīnāsavehi) là những niệm xứ thuộc phần trước.

Những niệm x được tu tập bởi bảy hữu học (Sattahi Sekhehi) là hỗn hợp, tức là gồm có phần trước (pubba-bhāga) và phần sau (aparabhāga). (73)

Cùng với niệm xứ (Satipaṭṭhāna) và các kinh khác được thảo luận cho đến nay, kinh này chứa những từ ngữ “tinh cần, tỉnh giác”. Nhưng thay vì “chuyên niệm, sau khi từ bỏ tham và ưu đối với thế giới”, kinh văn có “chuyên tâm, với tâm hoàn toàn thanh tịnh, định tĩnh và nhất tâm”.

Nơi mà những kinh khác trình bày sự tiếp cận tứ niệm xứ như một sự từ bỏ, tức là từ bỏ các triền cái, thì kinh này trình bày như một sự chứng đạt, tức là, chứng đạt định.

Giờ đây, vì những tân tỳ khưu được đề cập trong kinh này là những phàm phu (puthujjana) và do đó những niệm xứ họ tu tập là những niệm xứ thuộc phần trước, định căn (Samādhindriya) tương đương với sự từ bỏ tham và ưu trong Netti Pakarana cũng là hợp thế (lokiya). Như vậy định căn hợp thế (lokiya-samādhindriya) thuộc phần trước (pubba-bhāga) đến trước định căn siêu thế (lokuttarā samādhindriya) thuộc phần sau (apara-bhāga).
Kinh sau đây cho thấy rằng có hai nhóm người khác tu tập tứ niệm xứ. “Như vậy, này chư tỳ kheo, ở đây một tỳ kheo là kẻ ngu, không kinh nghiệm, vụng về sống thực hành quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác và chuyên niệm, sau khi từ bỏ tham và ưu đối với thế giới. Khi vị ấy sống thực hành quán thân như thế, tâm vị ấy không được định tĩnh (cittaṃ na samādhiyanti), những phiền não không được từ bỏ (upakkilesā na pahiyānti) và vị ấy không tiếp thu được tướng đó (So taṃ nimittaṃ na uggaṇhāti). Như vậy với các thọ .. tâm. Vị ấy sống thực hành quán pháp trên các pháp, tinh cần, tỉnh giác và chuyên niệm, sau khi từ bỏ tham và ưu đối với thế giới.

Khi vị ấy sống thực hành quán pháp trên các pháp như thế, tâm vị ấy không được định tĩnh, những phiền não không được từ bỏ và vị ấy không tiếp thu được tướng đó.

“Này chư tỳ kheo, theo cách này, vị tỳ kheo ngu si, không kinh nghiệm, vụng về này không phải là người có được hiện tại lạc trú, cũng không phải là người được chuyên niệm và tỉnh giác. Lý do cho điều đó là gì? Này chư tỳ kheo, bởi vì tỳ kheo này là kẻ ngu, không kinh nghiệm, vụng về không tiếp thu được tướng tâm của mình (sakassa cittassa nimittaṃ na uggaṇhāti).....

“Này  chư tỳ kheo, như vậy ở đây một tỳ kheo có trí, kinh nghiệm, khéo léo sống thực hành quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác và chuyên niệm, sau khi từ bỏ tham và ưu đối với thế giới. Khi vị ấy sống thực hành quán thân trên thân như thế tâm vị ấy được định tĩnh (cittaṃ samādhiyati), các phiền não được từ bỏ (upakkilesā pahīyanti) và vị ấy tiếp thu được tướng đó (So taṃ nimittaṃ ugganhāti).

Như vậy với các thọ … tâm. Vị ấy sống thực hành quán pháp trên các pháp, tinh cần, tỉnh giác và chuyên niệm, sau khi từ bỏ tham và ưu đối với thế giới. Khi vị ấy sống thực hành quán pháp trên các pháp như thế, tâm vị ấy được định tĩnh, các phiền não được từ bỏ và vị ấy tiếp thu được tướng đó.

“Này chư tỳ kheo, theo cách này, vị tỳ kheo có trí, kinh nghiệm và khéo léo có hiện tại lạc trú, cũng có chuyên niệm và tỉnh giác. Lý do cho việc đó là gì ? Này chư tỳ kheo, bởi vì vị tỳ kheo có trí, kinh nghiệm, khéo léo này tiếp thu được tướng tâm của vị ấy (sakassa cittassa nimittaṃ ugganhāti)” (74)

Chú giải có lời giải thích “Các phiền não = năm triền cái. Không tiếp thu được tướng đó = vị ấy không biết “đối với tôi đề mục quán sát này bước vào ngưỡng cửa ‘thuận thứ’ hoặc ‘chuyển tánh”; vị ấy không thể tiếp thu được tướng tâm của mình. Trong kinh này được nêu ra là quán thuộc phần trước của tứ niệm xứ”. (75)
Vì đây là sự diễn tả về vị tỳ kheo ngu si, không kinh nghiệm, vụng về, trái với diễn tả đúng đắn về tỳ kheo có trí, kinh nghiệm, khéo léo. Vị ấy tiếp thu được tướng đó và biết khi nào vị ấy bước vào ngưỡng cửa ‘tâm thuận thứ’ hoặc ‘chuyển tánh. Hơn nữa, có phát biểu của kinh, đó là vị ấy chứng hiện tại lạc trú (lābhī hoti diṭṭheva dhamme sukhaviharanaṃ); và tỳ kheo ngu si, không kinh nghiệm, vụng về này không chứng được.
Mặc dù chú giải giữ im lặng ở đây, chúng ta biết từ những kinh văn khác và các chú giải của những kinh đó rằng câu nói “Hiện tại lạc trú” là một trong những diễn tả về bốn thiền (jhāna). Chẳng hạn, đoạn văn: Bốn thiền thuộc về tâm trong sáng nhất và là hiện tại lạc trú” được giải thích trong chú giải như vầy: “Hiện tại lạc trú = lạc trú trong thế giới. Thế giới này = được gọi là những chúng sanh có thể nhận thấy bằng các giác quan. Ở đây chúng sanh đang trú trong an lạc là ý nghĩa. Đó là một “đồng nghĩa khá gần” với các thiền sắc giới.

Những hành giả ngồi sau khi chứng những thiền đó kinh nghiệm lạc xuất ly không ô nhiễm trong chính đời sống này. Do đó họ được gọi là có hiện tại lạc trú” (76)

Những điều đã nêu cho thấy rằng khi phần trước của tứ niệm xứ được tu tập thì bốn thiền phát sinh, và vì những lý do này: (i) tâm được định tĩnh (cittaṃ samādhiyati) ; (ii) Những phiền não (upakkilesa) là năm triền cái được từ bỏ (pañca nīvaraṇa pahīyanti ); (iii)  tướng đó được tiếp thu (nimittaṃ ugganhāti). Tướng đó là “thuận thứ (anuloma)” hoặc “chuyển tánh (gotrabhū)” và (iv) hiện tại lạc trú được chứng đạt (labhi hoti diṭṭheva dhamme sukhaviharanaṃ), vốn là một đồng nghĩa khá gần với thiền sắc giới (rūpāvacara jjhānānaṃ etaṃ adhivacanaṃ).
Những gì được phát biểu trong những kinh này về sự phát sinh của bốn thiền khi tứ niệm xứ đang được tu tập được phát biểu từng phần trong chú giải kinh niệm xứ (Satipaṭṭhāna Sutta) như vầy: “Thực vậy đối với hành giả đó đang học tập trong niệm hơi thở theo phương pháp được dạy như vầy “Vị ấy suy tư ‘tôi thở vào dài, hiểu biết khi vị ấy đang thở vào dài … An tịnh thân hành … Suy tư tôi thở ra, vị ấy tự học tập, bốn thiền (cattāri jhānāni) phát sinh trong tướng hơi thở”. (77+)

Có lời nói trong phần 1 (a) & (b) rằng sự từ bỏ năm triền cái đi trước sự tu tập tứ niệm xứ.

Điều này chúng ta đã thấy trong phần 35 là không phải chỉ sự từ bỏ đơn thuần xảy ra trong cận hành, nhưng sự từ bỏ xảy ra với sự phát sinh của các chi thiền. Ở điểm này người ta được quyền nói rằng tài liệu tròn đủ đã được đưa ra cho độc giả thấy rõ  trong việc ủng hộ biện pháp theo trình tự của lời dạy về “sự học tập dần dần, làm việc dần dần và thực hành dần dần”. Biện pháp này là bất khả xâm phạm vì nó là ngôn từ của bậc Toàn giác (Sambuddha). Nó bao gồm trong người có giới, định, và tuệ như được dạy trong các kinh, các chú giải và các phụ chú giải mà “phù hợp với các kinh” trong việc làm đúng theo những hướng dẫn của Đức Phật được nêu ra trong Catu Mahāpadesa Sutta.

Ở đây giới là nền tảng  của định và định là nền tảng  của tuệ. Do đó trình tự thực hành hoặc sự tu tập cũng là trình tự mà chúng được đề cập trong đó, chính là ở giai đoạn thứ ba và cuối cùng, tức là tuệ mà quán được tu tập. Được xem xét bằng cách của những thanh tịnh, giai đoạn này tương đương với năm thanh tịnh bắt đầu với Kiến thanh tịnh, nơi mà quán bắt đầu.
Chúng ta đã thấy (1) trong phần 8 rằng “định = tám thiền chứng mà là cơ s của quán”; (2) trong phần 9 rằng “Tâm thanh tịnh là tám thiền chứng cùng với cận hành”; (3) trong phần 15, (a) rằng ‘khi có chánh định, người mà có chánh định, vị ấy có duyên tròn đủ của tri kiến như thực về các pháp” và (b) tri kiến như thực về các pháp là quán yếu và (4) trong phần 4 rằng chánh định được định nghĩa là bốn thiền.

Bất cứ sự sắp xếp lại hoặc thay đổi biện pháp theo trình t này là cản trở những hướng dẫn đã được Đức Phật trình bày rõ ràng, không có con đường tắt hoặc cải biên nào đưa đến Niết bàn. Chỉ có một con đường duy nhất đến Niết bàn.

----------
CHÚ THÍCH


70. Netti Pakarana 31: Tasmātiha tvaṃ bhikkhu kāye kāyānupassī viharāhi ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ. Ātāpī’ti vīriyindriyaṃ, Sampajāno’ti paññindriyaṃ. Satimā’ti satindriyaṃ. Vineyya loke abhijjhādomanassan’ti samādhindriyaṃ.

71. Pts. I, 27: Vikkhambhanappahānañca nīvaraṇānaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ bhāvayato.

72. S. V, 144-45: Ye te bhikkhave bhikkhū navā acirapabbajitā adhunāgatā imaṃ dhammavinayaṃ te vo bhikkhave bhikkhū catunnaṃ satipaṭṭhānānaṃ bhāvanāya samādapetabbā nivesetabbā patiṭṭhāpetabbā. Katamesaṃ catunnaṃ. Etha tumhe āvuso kāye kāyānupassino viharatha ātāpino sampajānā ekodibhūtā vippasannacittā samāhitā ekaggacittā kāyassa yathābhūtaṃ ñāṇāya. Vedanāsu vedanānupassino viharatha ātāpino sampajānā ekodibhūtā vippasannacittā samāhitā ekaggacittā, vedanānaṃ yathābhūtaṃ ñāṇāya. Citte cittānupassino viharatha ātāpino sampajānā ekodibhūtā vippasannacittā samāhitā ekaggacittā cittassa yathābhūtaṃ ñāṇāya. Dhammesu dhammānupassino viharatha ātāpino sampajānā ekodibhūtā vippasannacittā samāhitā ekaggacittā dhammānaṃ yathābhūtaṃ ñāṇāya.

Yepi te bhikkhave bhikkhū sekhā appattamānasā anuttaraṃ yogakkhemaṃ patthayamānā viharanti, tepi kāye kāyānupassino viharanti ātāpino sampajānā ekodibhūtā vippasannacittā samāhitā ekaggacittā, kāyassa pariññāya. Vedanāsu vedanānupassino viharanti, ātāpino sampajānā ekodibhūtā vippasannacittā samāhitā ekaggacittā, vedanānaṃ pariññāya. Citte cittānupassino viharanti, ātāpino sampajānā ekodibhūtā vippasannacittā samāhitā ekaggacittā, cittassa pariññāya. Dhammesu dhammānupassino viharanti, ātāpino sampajānā ekodibhūtā vippasannacittā samāhitā ekaggacittā, dhammānaṃ pariññāya.

Yepi te bhikkhave bhikkhū arahanto khīṇāsavā vusitavanto katakaraṇīyā ohitabhārā anuppattasadatthā parikkhīṇabhavasaṃyojanā sammadaññā vimuttā, tepi kāye kāyānupassino viharanti, ātāpino sampajānā ekodibhūtā vippasannacittā samāhitā ekaggacittā, kāyena visaṃyuttā. Vedanāsu vedanānupassino viharanti, ātāpino sampajānā ekodibhūtā vippasannacittā samāhitā ekaggacittā, vedanāhi visaṃyuttā. Citte cittānupassino viharanti, ātāpino sampajānā ekodibhūtā vippasannacittā samāhitā ekaggacittā, cittena visaṃyuttā. Dhammesu dhammānupassino viharanti, ātāpino sampajānā ekodibhūtā vippasannacittā samāhitā ekaggacittā, dhammehi visaṃyuttā.

73. Spk. III, 200: Ekodibhūtāti, khaṇikasamādhinā ekaggabhūtā. Samāhitā ekaggacittāti, upacārappanāvasena sammā ṭhapitacittā ca ekaggacittā ca. Imasmiṃ sutte navakabhikkhūhi ceva khīṇāsavehi ca bhāvitasatipaṭṭhānā pubbabhāgā, sattahi sekhehi bhāvitā missakā. (Spk = Sāratthappakāsinī/chú giải Tương ưng)

74. S. V. 150-52: Evameva kho bhikkhave idhekacco bālo abyatto akusalo bhikkhu kāye kāyānupassī viharati, ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ, tassa kāye kāyānupassino viharato cittaṃ na samādhiyati upakkilesā na pahīyanti, so taṃ nimittaṃ na uggaṇhāti. Vedanāsu … Citte … Dhammesu dhammānupassī viharati, ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ, tassa dhammesu dhammānupassino viharato cittaṃ na samādhiyati upakkilesā na pahīyanti, so taṃ nimittaṃ na uggaṇhāti.

Sa kho so bhikkhave bālo abyatto akusalo bhikkhu na ceva lābhī hoti diṭṭheva dhamme sukhavihārānaṃ, na lābhī satisampajaññassa, taṃ kissa hetu? Tathā hi so bhikkhave bālo abyatto akusalo bhikkhu sakassa cittassa nimittaṃ na uggaṇhāti.

Evameva kho bhikkhave idhekacco paṇḍito byatto kusalo bhikkhu kāye kāyānupassī viharati, ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ, tassa kāye kāyānupassino viharato cittaṃ samādhiyati upakkilesā pahīyanti, so taṃ nimittaṃ uggaṇhāti. Vedanāsu (…pe…). Citte (…pe…) Dhammesu dhammānupassī viharati, ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ, tassa dhammesu dhammānupassino viharato cittaṃ samādhiyati upakkilesā pahīyanti, so taṃ nimittaṃ uggaṇhāti.

Sa kho so bhikkhave paṇḍito byatto kusalo bhikkhu lābhī ceva hoti diṭṭheva dhamme sukhavihārānaṃ lābhī hoti satisampajaññassa, taṃ kissa hetu. Tathā hi so bhikkhave paṇḍito byatto kusalo bhikkhu sakassa cittassa nimittaṃ uggaṇhātī’ti.

75, Spk. III, 201: Upakkilesāti, pañca nīvaraṇā. Nimittaṃ na uggaṇhātīti, imaṃ me kammaṭṭhānaṃ anulomaṃ vā gotrabhuṃ vā āhacca ṭhita’nti na jānāti: attano cittassa nimittaṃ gaṇhituṃ na sakkoti. Imasmiṃ sutte pubbabhāgavipassanā satipaṭṭhānāva kathitā.

76. M.I. 33: A. II, 23: Catunnaṃ jhānānaṃ ābhicetasikānaṃ diṭṭhadhammasukhavihārānaṃ (=Ps. I. 161; MP. III, 29: Diṭṭhadhammasukhavihārānanti diṭṭhadhamme sukhavihārānaṃ. Diṭṭhadhammoti paccakkho attabhāvo vuccati; tattha sukhavihārabhūtānanti attho. Rūpāvacarajjhānānametaṃ adhivacanaṃ; tāni hi appetvā nisinnā jhāyino imasmiṃyeva attabhāve asaṃkiliṭṭhaṃ nekkhammasukhaṃ vindanti, tasmā diṭṭhadhammasukhavihārānī’ti vuccanti.

77. Ps. I, 748-49: Tassa pana imesaṃ ‘‘dīghaṃ vā assasanto dīghaṃ assasāmīti pajānāti…pe… passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ passasissāmīti sikkhatī’ti evaṃ vuttānaṃ assāsapassāsānaṃ vasena sikkhato assāsapassāsanimitte cattāri jhānāni uppajjanti. + Soma Thera's translation, The Way of Mindfullness, 1949. (+ bản dịch The Way of Mindfullness, 1949) của Soma Thera)

--------

Người dịch ghi chú:

Pts = Paṭisambhidāmagga

S= Saṃyutta Nikāya

Spk = Sāratthappakāsinī (chú giải Saṃyutta Nikāya)

…pe… = Peyyāla ( cho biết đoạn này bị bỏ do trùng lặp)

M= Majjhima Nikāya

Ps = Papañcasūdani (chú giải Majjhima Nikāya)
A = Aṅguttara Nikāya

Mp = Manorathapūraṇī (chú giải Aṅguttara Nikāya)

Bài viết năm 2023 khác