MỞ CỬA NIỆM XỨ Tỳ kheo Giác Lộc

21/10/2022 - 23:55   272

MỞ CỬA NIỆM XỨ

Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. (Kinh Niệm xứ, HT. Thích Minh Châu dịch)

Idha, bhikkhave, bhikkhu kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ; vedanāsu vedanānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ; citte cittānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ; dhammesu dhammānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ.

Vineyya là một loại động từ bất biến. Thành lập bằng động từ cộng với những hậu tố như tvā, tvāna, tūna, ya và còn một số hậu tố khác nữa Nhà ngữ pháp Pāli Buddhadatta gọi dạng động từ này là Absolutives (động từ độc lập) hoặc indeclinable past participles (quá khứ phân từ không biến cách). Dạng này rất giống với active past participle trong ngữ pháp tiếngAnh, còn gọi là perfect participle active. Nhiều sách viết về ngữ pháp Pāli gọi đây là dạng Gerund (danh động từ), nói cho rõ là perfect gerund. Cấu trúc theo tiếng Anh là having + past participle. Diễn tả hành động xảy ra trước động từ chính, cho nên dịch là ‘sau khi…’

So gāmaṃ gantvā bhattaṃ bhuñji

Having gone to the village, he ate rice

(sau khi đi vào làng, vị ấy đã ăn cơm)

Trong sách giáo khoa Pāli, loại động từ bất biến này diễn tả hành động xảy ra trước động từ chính. Nhưng ngữ pháp chuyên sâu hơn còn giải thích loại động từ bất biến này xảy ra đồng thời với động từ chính.

So mettāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati

Nếu dịch là: Sau khi rải một phương với tâm từ, vị ấy an trú.

Dịch như vậy sẽ hiểu là rải rồi mới có tâm từ .

Pharitvā (hành động rải) diễn ra đồng thời với hành động của động từ chính Viharati (sống, trú).

Câu này không dịch là sau khi, bởi vì việc rải và việc an trú trong tâm từ xảy ra đồng thời

So mettāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati

Dịch là: Vị ấy s ống rải một phương với tâm từ.

Bhikkhu kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ

Cũng vậy nếu dịch:

Sau khi chế ngự tham, ưu ở đời, Tỳ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm

Không thể dịch là sau khi chế ngự vì ch ế ngự xảy ra đồng thời với với động từ chính viharati (sống).

Dịch đúng ngữ cảnh là :

Tỳ kheo sống quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác, chú niệm và từ bỏ tham ưu ở đời. Hoặc theo bản dịch của HT. Thích Minh Châu ‘Tỷ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời’.

Theo chú giải ‘tham (abhijjhā) tức là triền cái dục tham (kāmacchanda), ưu (domanassa) tức là triền cái sân (vyāpāda). Đây là hai triền cái đầu tiên và nổi bật, cho nên khi nói tham ưu nên hiểu là bao hàm cả ba triền cái còn lại. Từ bỏ tham ưu là từ bỏ năm triền cái’.

Khi dịch sau khi từ bỏ tham ưu, mọi người sẽ hiểu là sau khi từ bỏ năm triền cái thì tứ niệm xứ mới được tu tập. Nghĩa là phải có thiền chỉ, ít nhất cũng có sơ thiền, sau đó tu tập tứ niệm xứ mới có kết quả.

Đây là quan niệm phải chứng thiền chỉ trước, sau đó mới có khả năng tu quán và chứng thánh quả. Nếu không có thiền chỉ là thiếu định, do đó cũng khộng có trí tuệ và không thể chứng thánh quả.

Nếu theo ngữ pháp dịch là ‘Vị tỳ kheo sống quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác, chú niệm và từ bỏ tham ưu ở đời’ thì không phải là sau khi mà là đồng thời với sống quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác, chú niệm. Hoặc dịch theo Hòa thượng Thích Minh Châu ‘Tỷ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời’. Cách dịch này vừa đúng ngữ pháp vừa đúng với kinh niệm xứ. Nơi đây không phải sau khi từ bỏ tham ưu. Nhưng đúng ra là khi sống tinh cần, tỉnh giác, chú niệm thì sẽ có từ bỏ tham, ưu ở đời. (vineyya loke abhijjhādomanassaṃ). Lưu ý ở đời (loke), là trong thân, thọ, tâm, pháp, tức là danh sắc, hoặc năm thủ uẩn. Điều này cho thấy đối tượng của niệm xứ là chân đế.

Theo thiền sư Sayadaw U Silananda, ‘Tham ưu là kết quả. Thực hành niệm xứ để làm gì? Để chế ngự tham ưu. Nếu một người đã chế ngự tham, ưu rồi thì không cần thực hành. Do đó, nên dịch là đang chế ngự, không phải sau khi chế ngự. Nghĩa là hành giả chế ngự tham ưu khi vị ấy thực hành niệm xứ. Nếu đưa ra quyết định đối tượng là đẹp, khả ái thì có tham. Nếu kết luận đối tượng là xấu, khả ố thì có có ưu. Do nhờ niệm mà ngăn những phiền não này. Chúng ta hiểu rõ ràng, thấy rõ ràng đối tượng, thấy chúng đến và đi, chúng là vô thường v.v… Vì vậy không có dính mắc chúng, do không dính mắc nên không có tham, ưu với đối tượng đó’.

Kinh niệm xứ chỉ nói vineyya loke abhijjhādomanassaṃ (từ bỏ tham ưu ở đời). Chú giải đưa năm triền cái vào. Nhiều nhà kinh điển nắm lấy chỗ chú giải này để dịch vineyya loke abhijjhādomanassaṃ là ‘sau khi chế ngự tham, ưu ở đời’ và kiến giải rằng sau khi chế ngự năm triền cái, nghĩa là sau khi chứng thiền chỉ, kế đến tiến hành tu quán tứ niệm xứ. Nếu không chứng thiền chỉ trước thì việc tu quán là vô ích vì không thể phát sinh tuệ quán để đưa đến thánh pháp.

Nếu hiểu như vậy thì làm thế nào để giải thích Phật ngôn sau đây:

Này các Tỷ kheo, có năm triền cái này. Thế nào là năm? Dục tham triền cái, sân triền cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo hối triền cái, nghi triền cái. Này các Tỷ kheo, có năm triền cái này. Này các Tỷ kheo, để đoạn tận năm triền cái này, Bốn niệm xứ cần phải tu tập. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo trú quán thân trên thân... trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ kheo, để đoạn tận năm triền cái, Bốn niệm xứ cần phải tu tập.

(Tăng chi bộ kinh, chương 9 pháp, số 64, triền cái, HT. Thích Minh Châu dịch).

Phật ngôn trên nói rõ ràng theo nghĩa đen, không phải ẩn dụ, đó là tu tập tứ niệm xứ đưa đến đoạn tận năm triền cái, không phải sau khi đoạn tận năm triền cái rồi mới tu tập tứ niệm xứ.

Đúng ra việc từ bỏ tham ưu xảy ra đồng thời với việc tu tập tứ niệm xứ. Sống tinh cần, tỉnh giác, chú niệm thì tham, ưu được từ bỏ. Sống không tinh cần, không tỉnh giác, không chú niệm thì tham, ưu không được từ bỏ.. Tinh cần, tỉnh giác, chú niệm và từ bỏ tham ưu ở đời theo suốt quá trình thiền quán cho đến khi chứng A la hán. Có tác giả cho rằng việc từ bỏ tham ưu ở đời là bước đầu của tứ niệm xứ trong việc thu thúc sáu căn môn. Tác giả này lấy thu thúc căn môn trong kinh Sa môn quả lồng vào kinh niệm xứ. Nên nhớ thu thúc căn môn trong kinh Sa môn quả là pháp môn tuần tự từ giới, đến định và cuối cùng là tuệ. Đối tượng thu thúc trong pháp môn tuần tự và thu thúc trong kinh niệm xứ khác nhau. Đó là chế định và chân đế. Thu thúc ở đây không lấy chế định làm đối tượng mà lấy chân đế là danh, sắc làm đối tượng và thu thúc chính là niệm thu thúc. Từ bỏ tham, ưu chỉ là kết quả của niệm thu thúc.

Tham, ưu trong kinh niệm xứ nếu không theo hướng quy vào năm triền cái như chú giải, chúng ta sẽ có cái nhìn bao quát hơn về hai từ này.

Abhijjhā (tham) đồng nghĩa lobha, domanassa (ưu) đồng nghĩa dosa (sân). Tham ưa thích đối tượng, sân chán ghét đối tượng. Tham có nhiều mức độ, không phải chỉ riêng dục tham triền cái. Sân cũng có nhiều mức độ. Hình thức sân có nhiều, không phải chỉ riêng nổi giận, còn có sầu muộn, lo sợ v.v…cũng là hình thức của sân. Trong tham có si, trong sân có si. Tham, sân, si là ba căn bản bất thiện. Khi không có thực hành niệm xứ sẽ có vọng tưởng và từ nơi vọng tưởng sinh ra tham, ưu đối với những đối tượng. Từ nơi tham ưu sẽ sinh ra nhiều phiền não trong đó có năm triền cái. Khi thực hành niệm xứ, phát triển niệm thì vọng tưởng phân biệt như tướng nam, nữ, đẹp, xấu không có cơ hội phát sinh. Do đó, tham ưu đối với đối tượng được từ bỏ vì đối tượng được thấy, biết như thực. Kinh niệm xứ nêu ra câu quan trọng là ‘để chế ngự tham, ưu ở đời’, ngoài ra còn một câu quan trọng nữa, đó là ‘Anissito ca viharati, na ca kiñci loke upādiyati.’(vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời). Nếu không có thực hành niệm xứ thì sẽ có dựa vào, tức là lệ thuộc theo đối tượng, sẽ có chấp thủ đối tượng, lúc đó đối tượng không còn được nhìn khách quan nữa mà sẽ có ý niệm ta, của ta xen vào, dựa vào đó, chấp vào đó tạo thành thế giới của vọng tưởng. Cho nên thực hành niệm xứ đưa đến sống không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Ly thoát, không chấp thủ uẩn là công việc tu quán niệm xứ và là cách duy nhất đưa đến đạo quả siêu thế.

Cần lưu ý dù có nhiều bất đồng về câu để chế ngự tham ưu ở đời. Nhưng người tu chỉ và người tu quán phải trải qua ‘tinh cần, tỉnh giác, chú niệm để chế ngự tham, ưu ở đời’. Sự trải qua này là thấy, biết đối tượng danh, sắc như thực và từ đó mới phát triển các quán trí và mở ra đạo quả siêu thế.

Tuy nhiên thiền sư Pa Auk Sayadaw dịch ‘vineyya loke abhijjhādomanassaṃ’ là ‘sau khi từ bỏ tham ưu ở đời’. Nghĩa là từ bỏ 5 triền cái. Theo thiền sư, sau khi từ bỏ nghĩa là tu tập định, định được chứng do từ bỏ 5 triền cái, phải chứng ít nhất là cận định hoặc sơ thiền trở lên trong thiền chỉ. Cũng theo thiền sư, con đường duy nhất trong tứ niệm xứ là giới, định, tuệ và định chính là thiền chỉ. Tuệ chính là thiền quán. Thiền sư nói như vậy là đúng theo chú giải và để thích hợp với đường lối chỉ quán của Ngài.

Natthi jhānaṃ apaññassa, paññā natthi ajhāyato

Yamhi jhānañca paññā ca, sa ve nibbānasantike

Không trí tuệ, không thiền,

Không thiền, không trí tuệ.

Người có thiền có tuệ,

Nhất định gần Niết Bàn

(Pháp cú 372, HT. Thích Minh Châu dịch)

Khi thấy chữ thiền (jhāna). Nhiều nhà kinh điển sẽ hiểu là không có thiền chỉ sẽ không có trí tuệ trong thiền quán. Nếu nhìn lại trên 2500 trước, vào thời Đức Phật người ta sẽ hiểu thiền (jhāna), định (samādhi) rộng hơn, không có tóm vào thiền chỉ như vào thời chú giải. Nếu hiểu câu trên cho đúng thì thiền chỉ dù chứng đến bát thiền cũng không gọi là chánh định nếu tách riêng ra chánh kiến quán. Nghĩa là thiền đó phải kết hợp với bát chánh đạo, lúc đó mới gọi là chánh định và mới gọi là có thiền có tuệ. Điểm này bị hiểu lầm cứ nghĩ rằng chứng được thiền chỉ thì sẽ có chánh định. Trái lại người không tu thiền chỉ, nhưng tu trực tiếp tứ niệm xứ, phát triển niệm mạnh, kết hợp với quán. Niệm mạnh đưa đến định trong đối tượng danh, sắc. Định mạnh này là thiền. Do kết hợp trực tiếp với chánh kiến quán nên định này là chánh định. Sự tu tập niệm xứ này dù không có thiền chỉ vẫn có khả năng phát triển các quán trí và chứng ngộ đạo lộ siêu thế.

Kết luận

Đức Phật giảng kinh niệm xứ cho người thực hành thiền chỉ sẽ có vài điểm khác với giảng cho người thực hành thiền quán. Tranh cãi chỉ trước, quán sau, hoặc quán không cần chỉ sẽ vô ích nếu tự mình không chứng nghiệm thiền chỉ đó, hoặc thiền quán đó. Khi đã chứng nghiệm, tự mình cảm nhận hiện tại lạc trú thì không còn vấn đề tranh cãi nữa. Nếu thích tranh cãi là thích tham ưu và sẽ là người sống dựa vào, chấp trước sự vật ở đời. Hoàn toàn trái với lời dạy trong kinh niệm xứ. Nếu chúng ta nhận thích có vài khác biệt trong pháp môn của các Sayadaw thì hãy như mỗi người nhìn mỗi góc cạnh của viên ngọc quý giá. Mỗi góc cạnh đều có vẻ đẹp riêng. Do môi trường thích hợp, mỗi Sayadaw được đào tạo sâu rộng, có nhiều điều để học hỏi nơi mỗi vị. Khi tập hợp hết vẻ đẹp đó lại thì chúng ta sẽ thấy một viên ngọc trân quý toàn vẹn.

Hãy học câu chú giải thâm thúy này để hoàn tất bài viết:

Bạn không thấy cái gì bạn thực sự thấy. Bạn thấy cái gì bạn không thực sự thấy.

Và tứ niệm xứ dạy chúng ta sửa lỗi trên, nghĩa là ‘thấy, biết như thực’.

Bài viết năm 2022 khác