Ba tăng thượng Tỳ kheo Giác Lộc
12/12/2021 - 20:32 319
Ba Tăng Thượng
Ngã tăng thượng, thế tăng thượng, pháp tăng thượng.
(Kinh thập thượng, Trường bô kinh, HT. Thích Minh Châu dịch)
Ba tăng thượng giải thích rộng trong Tăng chi bô kinh, chương 3 pháp, kinh số 40)
Đây là đề tài liên quan đến tính thiện, ác, đến những vấn đề phức tạp, đơn giản của cá nhân và xã hội.
Ngã tăng thượng, thế tăng thượng, pháp tăng thượng
Pāli là Attādhipateyya, lokādhipateyya, dhammādhipateyya.
Cuộc sống không định hướng như con tàu vô định không biết đi về đâu. Đó là cuộc sống buông thả theo ác pháp và tạo nhiều ác nghiệp. Nếu có người sống có định hướng, biết Atthacariyā (lợi hành), muốn làm lợi ích cho Phật Pháp, làm từ thiện cho xã hội, nhưng lại hư hỏng, sa ngã, không hoàn thành nguyện vọng cao cả, vì sao? Bởi vì định hướng nửa vời. Làm thế nào để thành tựu trong việc lợi hành cho Phật Pháp và xã hội đã được Phật ngôn trong Tăng chi bộ kinh hướng dẫn đầy đủ trong bài Pháp ‘Ba tăng thượng’. Ādhipateyya (tăng thượng), nghĩa là uy thế nổi bật, uy quyền tối cao, chủ quyền. Ngã tăng thượng là uy thế thuộc về mình, đặt mình lên trên hết để định hướng cho đời mình. Thế giới tăng thượng là uy thế thiên về tha nhân. Pháp tăng thượng là uy thế thiên về Pháp, chân lý.
Ngã tăng thượng (Attādhipateyya)
Trong đề tài đang tìm hiểu, chúng ta thấy từ Attā (ngã). Trong khi đó Đức Phật giảng nhiều nơi về Anattā (vô ngã). Sự khác nhau là gì?
Tương ưng bộ kinh có Phật ngôn ‘piyo attā’ (tự ngã là thân ái) và ‘appiyo attā’ (tự ngã là không thân ái, tự ngã là kẻ thù). Ngã tăng thượng và tự ngã là thân ái, tự ngã là không thân ái. Ngã ở đây là mỗi cá nhân so với người khác. Đây là cách dùng theo tục đế, theo quy ước ở đời. Đức Phật đã dùng ngôn ngữ quy ước để diễn đạt giáo pháp. Khi nói về vô ngã là cách dùng theo chân đế.
Khi dùng ngã của tôi, ngã của anh, chị, thì có nghĩa là cá nhân tôi, cá nhân anh chị, chính tôi, chính anh chị. Khi sử dụng theo quy ước như vậy thì người nói không phạm nói dối. Chính Đức Phật vẫn xưng tôi với mọi người và gọi người khác như tỳ kheo, vua, bà la môn, hoàng tử, công chúa, đó là quy ước mà mọi người hiểu và chấp nhận.
Nếu cho rằng không có cha, không có mẹ, không có các loại hóa sanh, tất cả do tứ đại hợp thành, khi chết trở về cát bụi. Hiểu như vậy sẽ rơi vào thuyết hư vô, đoạn kiến.
‘Trong ngày Uposatha (trai giới), họ (các Niganthà) khích lệ đệ tử như sau: "Này các Ông, hãy quăng bỏ tất cả áo quần và nói như sau: "Ta không có bất cứ vật gì, bất cứ ở đâu, bất cứ chỗ nào. Bất cứ vật gì, bất cứ ở đâu, bất cứ chỗ nào, không có cái gì là của ta. ""Nhưng cha và mẹ của người ấy biết người ấy là con của mình. Và người ấy biết họ là cha mẹ của mình. Vợ và con người ấy biết người ấy là chồng, là cha của mình, và người ấy biết họ là vợ, là con của mình. Các người nô tỳ làm công biết người ấy là chủ của họ. Và người ấy biết họ là nô tỳ, là nhân viên của mình. Như vậy, trong thời gian đáng phải khích lệ đúng với sự thật, trong thời gian ấy, lại được khích lệ bằng điều nói láo. Ðây ta tuyên bố là một sự nói láo.
(Tăng chi bộ kinh, chương 3 pháp, 70, HT. Thích Minh Châu dịch)
Sự hiểu Phật ngôn ngã và vô ngã phải hiểu bằng trí tuệ tu tập để tránh cực đoan. Dù là vô ngã, mỗi cá nhân phải tu tập cho đến thanh tịnh giải thoát để hiểu vô ngã là thực tại chân đế, trong quá trình đó mỗi cá nhân phải bảo vệ mình, phải điều phục mình theo Pháp. Cái ngã đáng sợ là cái ngã theo ác pháp, nô lệ phiền não và đáng sợ nhất là ngã kiến (attādiṭṭhi). Đó là tà kiến chấp rằng có một cái ngã trường tồn, một cái linh hồn bất diệt. Ngã kiến này khiến phàm phu không thoát được cảnh khổ và đường luân hồi là vô tận.
BA TĂNG THƯỢNG
Ngã tăng thượng, thế giới tăng thượng, pháp tăng thượng là ba uy thế có sức mạnh ảnh hưởng lớn lao đến đời sống của mình, gia đình của mình, xã hội và thế giới.
Đề tài này bao quát các vấn đề tại sao có người tốt, xấu? Tại sao có người kêu gọi việc chùa, việc từ thiện được ca tụng hoặc bị lên án ? Tại sao có người tỏa sáng trong cuộc đời, tại sao có người bị cuốn theo chiều gió đời?
Đây là bài học cần ghi nhớ, cần lưu giữ để soi sáng đời sống của mình theo hướng đi mà Đức Phật đã chỉ dạy. Không thể viết một mạch trước khi tham khảo, xem xét cẩn thận. Chư độc giả sẽ đọc bài 1 vào ngày mai, bài 2 vào thứ năm, bài 3 vào thứ sáu trong tuần này.
Attādhipateyya
Ngã tăng thượng (attādhipateyya) là uy thế thuộc về mình. Thân, khẩu, ý của mình chịu ảnh hưởng trên uy thế của mình. Tất cả hành động dựa vào mình là trên hết. Uy thế của chính mình chính là ý thức mạnh mẽ về lòng tự trọng (attagaru), lấy lòng tự trọng bảo vệ mình trước những điều bất thiện. Khi có lòng tự trọng sẽ có hổ thẹn tội lỗi. Hổ thẹn (hiri) không phải là sự thẹn, sự nhút nhát trước người lạ, trước đông người. Hổ thẹn là thẹn đối với điều bất thiện, điều tội lỗi .
Hổ thẹn tội lỗi được tự trọng trợ giúp luôn luôn suy xét hành động của mình có đưa đến tự trách không? Có tổn hại đến thanh danh của mình và gia đình không?
Tự trọng không phải là tự ái. Trong khi tự trọng là thiện pháp, luôn luôn tinh tấn hướng dẫn mình tiến hóa theo điều thiện. Tự ái thì lại là ác pháp, thuộc về kiêu mạn (māna), luôn luôn trì trệ hướng dẫn mình thoái hóa theo điều bất thiện.
Tự ái là thương mình, nhưng đó là thương lệch lạc, có hại hơn là lợi, chỉ có tự trọng mới thực sự thương mình, kính mình. Người tự trọng mới biết trọng người, cũng như biết mình mới biết người.
Muốn giúp người bản thân phải có lòng tự trọng, nghĩa là phải tu dưỡng, tu tập. Uy thế của mình đến đâu, lòng tự trọng đến đâu là do sự tinh tấn điều phục chính mình.
Ngã tăng thượng là tạo cho mình một nội lực để bảo vệ mình. Khi bảo vệ được mình mới bảo vệ được người. Tự trọng sẽ không làm điều gì hại người, sẽ phát huy lòng vị tha. Nếu không có lòng tự trọng dù nói là làm lợi ích cho đời cũng sẽ làm điều hại cho đời vì không tự trọng sẽ đi với lòng vị kỷ. Một người không có uy thế của chính mình, sẽ không có tự trọng, không có hổ thẹn tội lỗi và sẽ làm những điều bất thiện. Tâm trí người đó không còn thanh thản, sẽ bị trĩu nặng bởi tâm trạng ray rứt, hối tiếc về những điều ác, xấu đã làm.
Bài giảng về tăng thượng (uy thế) thứ nhất chỉ là một phần trong tổng thể, quý vị phải đọc hết hai phần còn lại mới thấy hết toàn vẹn ý nghĩa thâm thúy của đề tài.
Lokādhipateyya
Thế giới tăng thượng (lokādhipateyya) là uy thế thuộc về thế giới (loka). Đời sống của mình chịu ảnh hưởng trên uy thế của thế giới. Uy thế của thế giới chính là ý thức mạnh mẽ về lòng tôn trọng thế giới (lokagaru) lấy lòng tôn trọng thế giới để giúp mình tránh những điều bất thiện.
Khi có lòng tôn trọng thế giới sẽ có ghê sợ tội lỗi. Sợ (ottappa) không phải là sợ chó, rắn, ma… Ghê sợ ở đây thuộc về thiện pháp, sợ những điều bất thiện, những điều tội lỗi.
Thế giới (loka) theo Tăng chi bộ kinh chỉ cho chúng sanh, gồm có các Sa môn, Bà la môn có thần thông, có thiên nhãn, có tha tâm thông, dù ở gần cũng không thấy được, nếu mình khởi lên tà tư duy thì các vị này có thể biết tâm niệm xấu của mình. Lại có các chư thiên có thần thông, có thiên nhãn, có tha tâm thông, dù ở gần cũng không thấy được, nếu mình khởi lên tà tư duy thì các vị này có thể biết tâm niệm xấu của mình. Kinh nêu hai hạng tiêu biểu như vậy, nhưng hiểu rộng ra thì thế giới là công luận, dư luận trong xã hội. Theo nghĩa thông dụng công luận, dư luận (public opinion) là nói về đa số, nhưng khi hiểu theo Phật ngôn thì không phải là ý kiến của đa số mà chính xác là tiếng nói của những bậc có trí.
Bậc có trí không phải đơn thuần là học cao hiểu rộng, đó phải là những bậc sống đời đạo đức, đủ tàm quý, nội tâm thanh tịnh, giải thoát. Cho nên khi nói về trọng thế giới là trọng những bậc có trí, không làm điều gì phi pháp để bị chê trách. Dù hai quan niệm về công luận khác nhau, nhưng cũng không khác nhau về giá trị của bậc có trí. Nếu một người không có trí và tin tưởng vào đa số không có trí thì xã hội sẽ không ổn định. Đúng như Phật ngôn ‘Nơi nào dù đông mà không có bậc trí giả thì nơi đó trở thành trống không’.
Ghê sợ tội lỗi được tôn trọng thế giới trợ giúp thường suy xét ‘Hành động của mình có bị các bậc có trí chê trách không’. Nếu biết rằng hành động này sẽ bị chê trách, thì phải bỏ không làm, không nói, không suy nghĩ. Ngày nào còn tôn trọng bậc có trí, không dám tự hành động càn rỡ theo ý mình thì còn giữ được thiện pháp nơi tâm mình và đem lại an lành cho mọi người. Người ghê sợ tội lỗi cũng thường suy xét ‘Người làm điều tội lỗi sẽ chịu nhiều hình phạt bởi pháp luật trong đời này. Do vậy, ta không nên làm điều bất thiện. Hơn nữa, nếu ta làm điều ác nơi thân, khẩu, ý thì phải chịu quả ác nơi cảnh khổ trong đời sau. Do vậy, ta không nên làm điều bất thiện’ .
Tự trọng sinh tàm, trọng thế giới sinh quý. Hai uy thế tạo thành hai thế mạnh tương quan để hướng dẫn đời sống của mình. Tàm và quý theo bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu là ‘Hai pháp trắng này che chở thế giới ( Dveme sukkā dhammā lokaṃ pālenti). Sukkā dhammā là pháp trắng. Kaṇhā dhammā là pháp đen (vô tàm, vô quý). Nhiều dịch giả tiếng Anh thường dịch là pháp sáng (sukkā), pháp tối (kaṇhā). Tàm và quý là hai pháp che chở thế giới vì nhờ hai pháp này các thiện pháp được bảo vệ, khi mất tàm và quý thì các ác pháp phát sanh. Một xã hội văn minh là do tàm, quý nâng đỡ. Một lúc nào đó thế giới sẽ mất tàm, quý, khi đó pháp bảo vệ mất thì thế giới sẽ rơi vào hỗn loạn như loài thú, nhân loại không còn tự trọng, không còn trọng người, tự do làm điều bất thiện.
Thế giới ngưỡng mộ về văn hóa tự trọng của Nhật. Nhưng số người tự tử chiếm quá nhiều. Gần đây nhà nước và dân chúng cảm thấy bất an vì một số người gây sát thương người khác nơi công cộng. Những kẻ này mang bệnh tự ti và căm ghét ai thành đạt. Họ hiểu sai tự trọng thành tự ái. Nếu vì thi rớt, hoặc mất chức mà tự tử thì đó không phải là tự trọng. Người tự trọng và trọng người, có tàm và quý trong trường hợp như vậy không cảm thấy mất lòng tự trọng. Việc đậu rớt, được mất không phải là mục đích tối hậu của cuộc đời, vì cuộc đời là muôn nẻo, đâu phải một nẻo. Sự kiên trì vươn lên trước khó khăn để làm lại, việc thay đổi kịp lúc khi thấy mình không thích hợp với sách vỡ, với chức vụ và tạo ra sự thành công vững vàng trong công việc mới. Đây là đức tính của tự trọng đồng hành với hổ thẹn tội lỗi và đưa đến trọng người đồng hành với ghê sợ tội lỗi. Một vị đại sứ nước nọ khi sa cơ phải đi làm shipper tại nơi mình làm đại sứ, việc này không có gì là mất tự trọng. Khi trọng người là trọng người có trí và người có trí không bao giờ chê trách ai thi rớt, mất chức. Vậy thì lệ thuộc ai mà phải hủy hoại cuộc đời. Hiểu rõ hai uy thế tự trọng, trọng thế giới có tàm - quý đồng hành sẽ hiểu rằng đây là hai thiện pháp thuộc về nội tâm, không liên quan ác pháp. Khi dựa vào hai uy thế này thì thân, khẩu, ý của mình thanh tịnh và gia đình, xã hội cũng sẽ an lành từ sự thanh tịnh của mình.
------
Dhammādhipateyya
Pháp tăng thượng (dhammādhipateyya) là uy thế thuộc về Pháp (dhamma). Thân, khẩu, ý của mình chịu ảnh hưởng trên uy thế của Pháp. Uy thế của Pháp chính là ý thức mạnh mẽ về lòng tôn trọng Pháp (dhammagaru) lấy lòng tôn trọng Pháp để giúp mình tinh tấn thành tựu Diệu Pháp siêu thế. Nếu như ở ngã tăng thượng chia ra tự trọng đi với hổ thẹn tội lỗi, ở thế giới tăng thượng có trọng thế giới đi với ghê sợ tội lỗi, thì ở Pháp tăng thượng cần nêu rõ, hổ thẹn và ghê sợ tách riêng như vậy để nói lên phần nổi bật của mỗi yếu tố, thực ra tàm-quý không tách rời, luôn có mặt chung với nhau. Trong Pháp tăng thượng tàm-quý có mặt trong tự trọng khi nghĩ về mình và có mặt trong trọng thế giới khi nghĩ về tha nhân. Khi thấy Pháp nơi mình còn kém, vì tự trọng nên tinh tấn để từ bỏ Pháp ác, thành tựu pháp thiện. Khi thấy gương tinh tấn, trọng Pháp của các bậc có trí, vì trọng thế giới của bậc trí nên không dám dể duôi, xao lãng tu tập.
Pháp tăng thượng hoặc trọng Pháp có Pháp siêu thế, vô thời gian để mình tôn trọng, tất cả đời sống hướng về sự thành tựu các pháp này. Quyền cao chức trọng của vị vua chuyển luân, hoặc uy quyền bao trùm thế gian, hoặc sanh vào cõi trời . Những danh vọng hữu hạn đó không là gì cả đối với vị chứng quả dự lưu, chưa nói đến quả siêu thế cao hơn:
Hơn thống lãnh cõi đất,
Hơn được sanh cõi trời,
Hơn chủ trì vũ trụ,
Quả dự lưu tối thắng.
(Pháp cú 178, HT. Thích Minh Châu dịch)
Ngã tăng thượng hoặc tự trọng sẽ là pháp lành nếu giữ được lòng tự trọng. Nhưng khi tự trọng bị hiểu sai thành tự ti sẽ có hại cho mình và mọi người . Hoặc tự trọng bị lồng vào tự tôn thì sẽ thành kẻ đề cao mỉnh và không còn giữ được tự trọng nữa. Làm thế nào để không sinh ra tự ti, tự tôn khi ở trên uy thế của tự trọng? Người tự trọng phải trọng Pháp, dù trọng mình cũng không bao giờ tách rời Pháp.
Thế giới tăng thượng hoặc trọng thế giới sẽ là pháp lành nếu giữ được lòng trọng bậc trí. Nhưng khi việc trọng người bị hiểu sai, không biết rõ ai vô trí, ai có trí, lúc đó pháp thiên vị thương, ghét, si mê, sợ xen vào và sự trọng người sẽ thành khinh người, không còn giữ đươc thiện pháp nữa. Cho nên trọng người cũng phải có trọng Pháp trợ giúp, dù trọng người cũng không bao giờ tách rời Pháp.
Trọng pháp sẽ là uy thế nổi bật soi sáng mình và thế giới, muốn bảo vệ mình phải thực hành pháp, muốn bảo vệ người phải thực hành pháp. Vấn đề ngã và thế giới sẽ bị ái, mạn, tà kiến xen vào làm cho uy th ế của thi ện pháp mất. Ngã kiến hoặc thân kiến là tà kiến do vọng tưởng tạo nên cho rằng có một cái ngã, một linh hồn bất diệt điều khiển con người mình, đó là ngã chấp. Ngã kiến này làm cho trầm trọng thêm ngã mạn dưới hình thức tự ti, tự tôn, tự đồng đẳng. Ở phàm phu ngã kiến càng mạnh thì ngã mạn càng cao. Người học pháp và thực hành pháp ngăn ngã kiến thô trong ý thức, nhưng trong thầm kín vi tế khó ngăn được.
Những bậc chứng thiền, chứng thần thông nếu còn phàm phu thì ngã kiến vẫn chi phối ngã mạn của vị ấy. Mạn này nếu tinh tấn thì không hại ai, nhưng hại con đường chứng pháp siêu thế. Nhưng khi không tinh tấn, không trọng Pháp thì hại mình và hại người không thua gì người không thiền, không thần thông như trường hợp tỳ kheo Devadatta (Đề bà đạt đa ). Tu tập đến bậc A La hán mới dứt sạch tư tưởng ngã mạn ‘ Có người tốt hơn ta, có người bằng ta, có người kém hơn ta’. Do đó, trọng Pháp, thực hành Pháp không ngừng là phận sự trọng đại của đời người, đặt uy thế của Pháp lên trên hết mọi uy thế là lựa chọn của các bậc trí tuệ.
Ba tăng thượng là ba uy thế mà xưa nay mọi người áp dụng để đem lại lợi ích cho mình và tha nhân. Tại sao trong đời có hạng vị kỷ, vị tha được nêu rõ trong ba tăng thượng. Những kẻ tư lợi sống để lừa dối đời, đạo là những kẻ cam chịu kiếp sống trong bóng tối bất thiện. Món nợ đã mượn sớm muộn gì cũng sẽ bị luật pháp và luật nhân quả đòi lại. Những người có lý tưởng lợi hành (atthacariyā), muốn làm tốt cho đời như kêu gọi làm từ thiện, cho đạo như giúp đỡ chùa chiền. Có người hoàn thành lý tưởng, giữ được lòng tự trọng, trọng người là loại hoa tỏa hương hữu ích trong cuộc đời. Nhưng có người ban đầu rất tốt, sau bị tiền bạc lôi cuốn, biến của chung thành riêng, đánh mất lòng tự trọng và trọng người. Tại sao? Bởi vì họ không có pháp môn vững chắc, xuống núi làm lợi hành nhưng không biết rõ về mình, về người. Khi tiếp xúc với thế giới là nhập cuộc dòng đời được, mất của các pháp thế gian, không có pháp thì lấy gì để trọng pháp, cho nên bị sa ngã, bị cuốn theo chiều gió đời là là dĩ nhiên. Phải trang bị Pháp trước khi làm lợi hành, phải biết niệm, định, tuệ của mình tới đâu, đó là cách bảo trọng mình. Làm sao để tự trọng không là tự ái, làm sao để trọng đời không là bất cần đời? Trả lời là phải thực hành Pháp để thấy rõ tâm của mình như người thấy rõ mặt khi nhìn vào gương. Khi chưa phải là bậc thánh thì các vọng tưởng ái, mạn, tà kiến lồng vào đời sống của mình. Để nhận ra mình có mạn, có tà kiến, tâm trí đang bị mạn, tà kiến thôi thúc làm điều bất thiện thì phải có pháp môn tu tập. Đây là phương châm cho những người có lý tưởng lợi hành không lầm đường lạc nẻo.
Đích của trọng Pháp là pháp siêu thế, vô thời gian. Như trường hợp tu tập tâm từ, ban đầu đối tượng là từng loại chúng sanh, từng phương hướng, sau đạt đến tâm từ vô lượng khắp chúng sanh, khắp các phương hướng. Nhưng thành tựu đó chỉ là sự giải thoát tâm khỏi các chướng ngại, làm cho tâm trong sáng, nhưng vẫn còn ở trong những tướng chế định. Tiến xa hơn để giải thoát tâm thanh tịnh đó khỏi các tưởng chế định và thấy đúng theo chân đế, có tri kiến như thực để vẹt tan những vọng tưởng của ái, mạn, tà kiến đối với năm thủ uẩn. Sự giải thoát này là tuệ giải thoát những phiền não sâu kín từng ngự trị, sai khiến thân, khẩu ý của mình. Người trọng Pháp dù còn chút dư tàn tùy miên cũng không dừng lại, cho đến khi chứng quả A la hán.
Ba tăng thượng liên hệ với nhau. Chính mình, thế giới và Pháp đều là những thiện pháp, trước hết phải áp dụng ba tăng thượng này để đem lại thanh tịnh cho thân, khẩu, ý của mình. Nếu chính mình không có ba uy thế này thì không thể giúp người được. Tâm có bình thì thế giới mới bình. Ngã và thế giới chỉ là chế định về trong, ngoài. Nếu không có pháp sẽ sinh ra tà kiến về một cái ngã thuộc về năm thủ uẩn. Do vậy cần có Pháp của Đức Phật để thực hành theo, để lòng tự trọng và trọng người không bị các vọng tưởng xen vào, từ đó mình và thế giới mới thực sự sống trong ánh sáng từ bi và trí tuệ.
Bài viết năm 2021 khác
- Kinh từ bi Tỳ kheo Giác Lộc
- Thơ con cóc Tỳ kheo Giác Lộc
- Tự lợi lợi tha Tỳ kheo Giác Lộc
- Hành trình giải thoát Tỳ kheo Giác Lộc
- Thế giới muôn màu Tỳ kheo Giác Lộc
- Kệ nhân duyên Tỳ kheo Giác Lộc
- Vĩ đại Tỳ kheo Giác Lộc
- Về quê mẹ Tỳ kheo Giác Lộc
- Bực tức Tỳ kheo Giác Lộc
- Thiên sứ Tỳ kheo Giác Lộc
- Hai thiên sứ Tỳ kheo Giác Lộc
- Dòng sông Tỳ kheo Giác Lộc
- Điện thoại Tỳ kheo Giác Lộc
- Chuột sa hũ nếp Tỳ kheo Giác Lộc
- Biết không Tỳ kheo Giác Lộc
- Bệnh ảo tưởng
- Vô duyên Tỳ kheo Giác Lộc
- Thực điên Tỳ kheo Giác Lộc
- Phật hiện Tỳ kheo Giác Lộc
- Người hâm mộ Tỳ kheo Giác Lộc
- Vesak Tỳ kheo Giác Lộc.
- Mơ ngủ mơ thức Tỳ kheo Giác Lộc
- Kết bạn Tỳ kheo Giác Lộc.
- Điều phục tâm Tỳ kheo Giác Lộc.
- Cái đồng hồ Tỳ kheo Giác Lộc
- Chữ cần biết Tỳ kheo Giác Lộc
- Bệnh quên Tỳ kheo Giác Lộc
- Ai giúp giúp ai Tỳ kheo Giác Lộc