Kinh từ bi Tỳ kheo Giác Lộc

12/12/2021 - 23:31   1070

15 đức tính cần có trước khi thực hành tâm từ

(Đây là bài kinh Tâm từ trong Khuddakanikāya do Đức Phật hướng dẫn. Từ thời Đức Phật chư Tăng thường tụng đọc và áp dụng vào việc rải tâm từ)

***

15 đức tính tiên khởi của tâm từ tạo ra một hành giả tâm từ hoàn toàn chất lượng ở đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối.

1- Sakko: Có năng lực

Người có năng lực là người khởi sự tạo ra khả năng trợ giúp con đường an tịnh, giải thoát bằng cách: Biết giữ gìn sức khỏe như ăn uống điều độ, tránh rượu chè, thuốc lá v.v…. Biết bảo vệ tâm bằng sự tinh tấn từ bỏ các pháp bất thiện, tinh tấn thực hiện các pháp thiện, kiên trì thành tựu các pháp thiện. Sức khỏe và tinh tấn là hai yếu tố chủ yếu của thành công và tạo ra một người có năng lực tiến xa trên con đường an tịnh, giải thoát.
------

2- Ujū: Chính trực

Thành thực, không lừa dối, không lươn lẹo.
--------
3- Suhujū: Chính trực toàn hảo

Thẳng thắng, minh bạch, liêm chính.

Uju trở thành Suhuju khi không xao lãng việc bảo vệ tính chính trực cho đến suốt đời. Uju là ngay thẳng, không lươn lẹo nơi thân và khẩu. Suhuju là ngay thẳng, không lươn lẹo nơi ý.

Thiếu chính trực và chính trực toàn hảo dù thành công đi nữa cũng thành công ngắn nhưng thất bại dài trên đường đời. Trên đường đạo thì không thành công được bước nào vì con đường an tịnh, giải thoát không dung chứa kẻ lươn lẹo, lừa dối dù ở thân, khẩu hoặc ý.
-----
4 - Suvaco: Dễ dạy, vâng lời

Cứng đầu, ngoan cố là khó dạy, thường chống đối lời khuyên tốt. Người dễ dạy sẵn sàng chấp nhận lời khuyên vì được chỉ ra lỗi khó thấy như chỉ chỗ chôn vàng, phải tỏ lòng hoan hỷ, biết ơn, không khó chịu. Nhưng nếu chấp nhận mà không sửa đổi và không làm theo lời khuyên thì chưa phải là dễ dạy, biết vâng lời. Tính dễ dạy cần thiết cho tâm từ vì người dễ dạy khó sân, người khó dạy dễ sân. Người khó dạy nổi sân khi có người nhắc nhở, khuyên răn, do đó không học thêm được điều cao quý.

Trong quá khứ xa xưa, hoàng tử được vua cha cho một số tiền đủ đóng học phí và bảo con đến phương xa để học các môn . Hoàng tử theo lệnh vua đến Takkasilā thọ giáo với vị thầy Bà la môn tài danh.

Khi hoàng tử đi tắm với thầy, thấy mè trắng do một bà lão phơi ngoài trời liền bốc một nắm ăn. Hoàng tử lập lại hành vi đó ba lần. Bà lão kêu khóc với vị giáo sư. Để dạy hoàng tử, vị giáo sư sai học trò đánh hoàng tử ba roi. Bị đau, vị hoàng tử tức giận, nhìn thầy với cặp mắt đỏ. Vị giáo sư hiểu cái nhìn đó chứa lửa giận đến cỡ nào.

Khi học xong , hoàng tử trở về Ba la nại và được vua cha phong vương. Việc đầu tiên của ông vua trẻ là muốn giết chết ông thầy để trả thù . Vua cho sứ giả đến mời vị giáo sư. Bấy giờ, giáo sư là tiền thân của bậc Đạo sư, có đại trí tuệ. Nghĩ rằng vua còn trẻ chưa thể dạy được nên không nhận lời. Đến khi vua bước vào tuổi trung niên, vị giáo sư khởi hành đến Ba la nại gặp vua. Nhìn thấy thầy, vị vua nổi giận, mắt đỏ ngầu. Trước triều thần, vua kể tội thầy và nói ‘ Hôm nay mạng sống của thầy không còn nữa’.

Vị giáo sư không sợ, nói rằng ‘Việc đánh năm xưa không phải vì thù ghét mà vì muốn khuyên dạy điều tốt lành. Nếu không có cái đánh đó, vua sẽ từ kẻ cắp vặt đến cướp xóm, làng và bị vua bắt tội chết, đâu còn làm vua như ngày nay’. Vua nhận ra mình sai. Tôn thầy làm quốc sư và trị vì một đất nước thái bình do tuân theo những lời sáng suốt của quốc sư.

(Trích Jataka 252, xem thêm kinh bổn sanh 252)

***
5- Mudu: Nhu hòa

Người dễ dạy (suvaco) sẽ có tính nhu hòa. Đó là tính dịu dàng, tao nhã biểu hiện nơi lời nói, cử chỉ. Trái lại là tính cộc cằn, thô lỗ. Người nhu hòa có vẻ mặt thân thiện khiến người ta thích thân cận.

-------

6- Anatimānī: Không kiêu ngạo

Atimānī liên quan với hai danh từ māna và atimāna. Māna là mạn, là so sánh về ba phương diện : Seyyo’haṃ asmi māna (mạn tôi tốt hơn), Sadiso’haṃ asmi māna (mạn tôi bằng), hīno’haṃ asmi māna (mạn tôi thấp kém). Ba loại mạn tôi là (asmi) này vượt tầm kiểm soát và đeo bám phàm phu. Thánh A na hàm vẫn còn bị mạn tôi là (asmi) chi phối. Vị A na hàm không có ngã kiến về năm uẩn, nhưng vẫn có tưởng về mạn tôi là vượt tầm kiểm soát, đây là một điều tinh vi trên đường giải thoát. Một câu chuyện cho thấy sự nguy hiểm của mạn tôi là: Tôn giả Anuruddha đến nói với tôn giả Sāriputta ‘Thưa Tôn giả Sàriputta, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên, tôi có thể nhìn thấy một ngàn thế giới’. Tôn giả Sāriputta nói ‘Hiền giả suy nghĩ như sau: "Với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, tôi có thể nhìn thấy một ngàn thế giới". Ðây là kiêu mạn của hiền giả.

Bị mạn tôi là này và hai phiền não trạo cử và hối, tôn giả Anuruddha không thể vào được thánh đạo A la hán mặc dù tâm định rất cao. Nên nhớ câu nói ‘với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên, tôi có thể nhìn thấy một ngàn thế giới’ xuất phát từ lòng chân thực, nhưng cũng không thoát khỏi mạn.

Khi mạn so sánh hơn (Seyyo’haṃ asmi māna) biểu hiện thành kiêu căng, hống hách ra bên ngoài thì gọi là Atimāna (kiêu ngạo), ati là quá mức, māna là mạn, Atimāna là mạn thái quá, kiêu ngạo. Khi nói về tính tình thì dùng Atimānī . Trong bài này Anatimānī, kết hợp từ: Na + atimānī = na là từ phủ định, nghĩa là không. Na đứng trước một nguyên âm biến thành An. Do vậy thành An + atimānī = Anatimānī (không kiêu ngạo).

Người có tính kiêu ngạo do ỷ mình hơn người về địa vị xã hội, học thức, tài sản. … Thói quen của kiêu ngạo là khoe khoang khoác lác, khen mình chê người (attukkaṃsakā paravambhī).

Người có tính kiêu ngạo không biết quý trọng những bậc khả kính, thường có thái độ khinh thường, do vậy không có cơ hội để tiếp nhận chân lý. Cũng do kiêu ngạo nên có tính phân biệt đối xử, kỳ thị và tạo ra vấn đề rắc rối cho xã hội.

Người có tính kiêu ngạo thích khen và không chịu nổi khi bị chê, cho nên khó giữ bình tĩnh sáng suốt, dễ làm mồi cho những trận mưa sân thất thường. Bấy nhiêu cũng đủ cho thấy lý do hành giả tâm từ cần có đức tính không kiêu ngạo.

------

7- Santussako: Tri túc

Tri túc là biết vừa đủ, hài lòng với những gì đã có.

Người có tính không tri túc sẽ sinh đa dục (mahiccha). Trái lại tính tri túc tạo ra thiểu dục (appiccha). Thiểu dục và tri túc thường được đề cập trong kinh văn Pāli. Một người nghèo đi chiếc xe rẻ tiền, hài lòng với chiếc xe dù thấy những xe khác đắt tiền hơn. Đây là tri túc với chiếc xe đã có. Nếu người này sinh ra lòng ham muốn chiếc xe tốt hơn, khổ sở vì lòng ham muốn, làm sao cho có nó bất kể sự có được là phi pháp. Đây là không tri túc. Không tri túc tạo điều kiện cho đa dục (mahiccha) hoặc lòng ham muốn xấu xa (pāpiccha) sinh khởi nơi tâm. Nếu chồng hoặc vợ không tri túc thì sẽ có vấn đề không chung thủy và gia đình đổ vỡ. Người có tính tri túc cảm thấy vừa đủ nên sống trong hạnh phúc. Trái lại không tri túc khiến người ta cảm thấy thiếu thốn dù có đủ mọi thứ, do đó sống trong đau khổ vì bị lửa ham muốn thiêu đốt. Phật ngôn trong kinh Pháp cú 204 ‘Santuṭṭhiparamaṃ dhanaṃ’ Tri túc là tài sản vĩ đại. Ý nghĩa vĩ đại vì không tài sản nào sánh bằng. Không phải vì có nhiều là tối thượng hoặc vĩ đại, mà chính vì hài lòng với hiện tại đã có, không khao khát tương lai chưa có. Một người như vậy có được hạnh phúc dù đó là một người bần hàn. Trái lại người lúc nào cũng cảm thấy thiếu, không có hạnh phúc, dù là một tỷ phú. Gandhi - một nhà cải cách xã hội được nhân dân Ấn độ và thế giới kính trọng có một câu nó thâm thuý ‘The earth has enough for everyone’s needs, but not for anyone’s greed’. Câu nói diễn đạt rõ nét những điều đã trình bày về hạnh tri túc.

Người lười biếng, thúc thủ trước hoàn cảnh khó khăn, có phải là người có tính tri túc không? Chắc chắn là không. Bởi vì thiểu dục, tri túc không có nơi người này. Đời sống của người này vẫn ở trong quyền lực của phiền não. Người có tính tri túc không có tâm trạng lười biếng và không thúc thủ trước mọi khó khăn. Đang nghèo, người này cố gắng cải tiến tài nãng, nghề nghiệp và có tài sản là do sự cố gắng hợp pháp. Người này chỉ hưởng cái gì xứng đáng với tài, đức của mình, không để cho lòng tham thấp hèn sai khiến. Đây là tính tri túc, dù trong hoàn cảnh nào cũng giữ được thiểu dục và tri túc để đem lại hạnh phúc cho chính mình, gia đình và tha nhân.

Tri túc nằm trong đức tính cần thiết cho hành giả tâm từ vì tri túc đối nghịch với bất mãn. Khi không tri túc thì không hài lòng với những gì đã có, do đó đa dục sinh thì bất mãn sinh, bất mãn chính là khổ. Tâm từ đem lại hạnh phúc, không đem lại đau khổ, cho nên tri túc là tài sản vĩ đại mà hành giả tâm từ phải có.

--------
8- Subharo: Dễ nuôi

Người có tính tri túc (santussako) do nếp sống tự chủ với lòng ham muốn sẽ tạo ra tính dễ nuôi.Người xuất gia khó nuôi (dubbharo) sẽ gây khó khăn cho người khác và trở ngại cho đời sống phạm hạnh. Người tại gia cũng sẽ gặp nhiều rắc rối nếu mang tính khó nuôi. Người có tính khó nuôi sẽ đua đòi, thích cuộc sống xa hoa, hoang phí tiền của, sức khỏe vào những thú vui vật chất. Trong gia đình, một người khó nuôi sẽ gây khó chịu cho mọi người vì thường cau có, gắt gỏng khi không hài lòng vì thức ăn hoặc những nhu cầu khác. Tính khó nuôi sẽ trở ngại cho sự phát triển tâm từ và càng trở ngại hơn cho hành trình đến thánh đạo. Người có tính dễ nuôi sẽ hài lòng với nếp sống đạm bạc, giản dị, thích ứng với mọi hoàn cảnh, cho nên không có cơ hội cho tâm sân sinh khởi, là điều kiện cần thiết cho tâm từ.

Từ Pāli bhara là nuôi dưỡng, bhāra là gánh nặng. Subharo (dễ nuôi) là nhẹ gánh cho mọi người. Dubbharo (khó nuôi) là nặng gánh cho mọi người. Nhìn xa hơn sẽ thấy Dubbharo là mẫu người mang gánh nặng phiền não và tùy theo mức độ sẽ trút sức nặng đau thương lên mọi người. Subharo là mẫu người từng bước đặt xuống gánh phiền não và làm cho đời nhẹ gánh lo âu. Mục đích của đời sống là gì? Phải chăng là sống để mưu cầu hưởng thụ mọi thứ trần thế cho đến ngày chết? Dĩ nhiên là không phải vậy. Sống trên đời để chuyên cần đặt xuống tất cả gánh phiền não muôn thuở (pannabhāro). Dù hiểu hay không, dù đang theo văn hóa, tôn giáo nào?, đó là chân lý không ai có thể đảo ngược.

--------

9- Appakicco: Ít bận rộn

Appa : nhỏ, ít. Kicca: phận sự, công việc. Theo nghĩa đen dịch là ít công việc. Ngụ ý sâu xa là người có tính ít bận rộn. Người có tính nhiều bận rộn (bahukicco) dù làm ít việc cũng trĩu nặng lo âu. Công việc nhiều nhưng không bận rộn vì công việc là khó. Khi tâm bị chi phối bởi công việc thì lo âu sinh. Khi lo âu sinh thì tâm bị ràng buộc bởi ngoại cảnh. Một tâm trí như thế không còn thảnh thơi vì bị các triền cái xâm chiếm. Đó là đối nghịch với năng lượng tâm từ. Người tại gia phải làm nhiều việc, muốn không bị ràng buộc vì công việc nên sắp xếp thời gian chu đáo và đừng bao giờ để cho lo âu xâm chiếm, muốn được như vậy phải trang bị nơi tâm một pháp hành để thường xuyên đi theo công việc, dù công việc nhiều, rất bận rộn, nhưng tâm không bận rộn. Công việc vẫn được giải quyết suôn sẻ, ổn thỏa. Nếu niệm đã phát triển thì đây là pháp hành trợ giúp công việc rất hiệu quả. Khi hành giả có pháp hành là tâm từ thì đây là một nội lực bảo vệ tâm thoát khỏi áp lực bên ngoài để trừ lo âu và đem lại hiệu quả cho công việc. Tâm từ cũng là nội pháp giúp cho viêc duy trì niệm thường xuyên có mặt trong hiện tại. Nói chung, ít bận rộn không phải vì công việc mà vì tâm trí không được tu tập, cái gì đã thành thói quen xấu thì khó sửa. Một người ít bận rộn không phải vì ít việc, cũng không phải vì có nhiều tiện nghi trợ giúp. Người đó phải là người đem pháp hành đến nơi làm việc và đem pháp hành về sau khi xong việc. Người có nội lực như thế tâm trí mới thảnh thơi trong lúc bận cũng như lúc rảnh.

--------

10- Sallahukavutti: Thanh đạm

Sallahuka là nhẹ nhàng, đạm bạc, vutti là cách sống. Theo chú giải thì đây là cách sống của bậc xuất gia nhẹ nhàng, ít sở hữu như con chim tung cánh mọi phương trời. Nhưng áp dụng cho người tại gia có sở hữu thì như thế nào ? Nếp sống thanh đạm cũng đặt căn bản nơi nội tâm. Nếu quá nặng về vật chất như ông triệu phú thành Xá Vệ chết sinh làm chó. Đây là nội tâm không thanh đạm. Những đại thí chủ tại gia thời Phật dù có nhiều tài sản, nhưng là những bậc thánh tại gia. Tại sao tài sản không gây trở ngại cho thánh quả? Bởi vì những đại thí chủ này có nếp sống thanh đạm nơi tâm, tài sản đối với họ không làm cho họ bị vướng mắc hoặc tham đắm.

Thanh đạm theo cách điều độ, chừng mực, không xa hoa trong ăn, mặc là điều kiện cần thiết. Nhưng khi người ta không dùng sự thanh đạm đó để tu tập tâm thanh đạm thì không đủ sức để làm cái đê ngăn những đợt sóng phiền não của đời sống tại gia. Tâm thanh đạm là nội tâm có kiểm soát, biết rõ dục lạc có vị ngọt mà cũng có vị đắng nên hướng về xả ly. Do đó tâm thanh đạm là biểu hiện của một đời sống trí tuệ trên căn bản thanh tịnh, giải thoát.

--------

11- Santindriyo: Tịnh căn

Santa : an tịnh + indriyo: căn

Dịch là tịnh căn, các căn an tịnh. Tại sao Santindriyo là trung tính lại biến cách là nam tính. Tại sao indriya là số nhiều lại là số ít. Santindriyo là cách kết hợp đặc biệt gọi là từ kép có đại từ liên hệ. Santāni + Indriyāni. Đây là chủ cách danh từ trung tính số nhiều. Nhưng khi hai danh từ kết hợp thì trở thành tính từ số ít nam tính vì bổ nghĩa cho ngữ cảnh là một tỳ kheo hành giả tâm từ. Santindriyo có nghĩa là vị tỳ kheo mà đã an tịnh các căn.

Căn (indriya) là gì? Theo từ nguyên, indriya có gốc từ inda là chủ, chúa. Như Đế thích là devānamindo (devānaṃ = của các vị trời; inda = chủ, chúa. Devānamindo là chúa của các chư thiên. Sakko Devānamindo = thiên chủ đế thích. Do vậy, Indriya là chủ, chúa. Nhãn căn (cakkhundriya) là chủ về phần mắt, nắm quyền kiểm soát việc thấy. Nhĩ căn (sotindriya) là chủ về phần nghe , nắm quyền kiểm soát việc nghe. Cái gì có khả năng làm chủ và kiểm soát gọi là căn. Đại trưởng lão Tịnh Sự dịch là quyền, nhãn quyền, nhĩ quyền …Tiếng Anh thường dịch là faculty (faculties) = quan năng, sense (senses) = giác quan, cũng là nói lên cơ quan có khả năng làm những việc như thấy, nghe ... Có sáu căn (lục căn) là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn , ý căn. Sáu đối tượng là sắc, thinh, hương (mùi), vị, xúc, pháp.

Lục căn an tịnh là đức tính trợ giúp cho việc bảo tồn và phát triển tâm từ. Khi các căn không an tịnh thì năng lượng phân tán, gây trở ngại cho việc phát triển tâm từ. Muốn lục căn an tịnh thì phải thu thúc căn (indriyasaṃvara). Saṃvara là thu thúc, chế ngự, phòng ngự khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng …Câu nói mắt thấy sắc, tai nghe tiếng: Cần phải hiểu nhãn căn là sắc pháp làm sao thấy được . Ở đây phải có tâm là nhãn thức nương nơi sắc nhãn thanh triệt (còn gọi là sắc thần kinh nhãn) mới thấy được. Như câu do duyên mắt và các sắc khởi lên nhãn thức. Sự hội tụ của mắt, sắc và nhãn thức là có xúc. Tuy nhiên trong lộ tâm chỉ riêng nhãn thức, nhĩ thức … cũng chưa tạo ra tham sân, các sát na tâm sinh diệt đến những sát na tâm javana (tốc hành tâm) thì thiện hoặc bất thiện mới sinh lên, đến giai đoạn này cần đến thu thúc mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ở lộ ngũ môn và thu thúc ý ở lộ ý môn. Khi các căn tiếp xúc các cảnh khả ái, nếu không thu thúc thì tâm tham, dính mắc sinh lên làm ô nhiễm tâm. Khi tiếp xúc các cảnh không khả ái thì tâm sân, chán ghét phát sinh lên làm ô nhiễm tâm. Tham và sân luôn luôn có si trợ giúp. Cho nên không thu thúc căn tạo điều kiện cho tham, sân, si chiếm cứ tâm và không còn tịnh căn nữa.

Thu thúc căn (indriyasaṃvara) còn gọi là bảo vệ các căn môn (indriyesu guttadvāra). Lục căn như các cửa cần phải bảo vệ nghiêm nhặt. Nếu không bảo vệ thì tham, sân sẽ xâm nhập vào tâm qua các cửa đó. Thu thúc căn và bảo vệ căn môn còn có tên khác là satisaṃvara (niệm thu thúc). Niệm như người giữ cửa và công việc của niệm là quan sát không xao lãng, khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng … Không để cho đối tượng khả ái và không khả ái làm cho tâm xao động. Khi nội tâm ô nhiễm thì sẽ tạo ra những nghiệp bất thiện nơi thân, khẩu, ý và năm triền cái phát sinh ngăn tâm từ chưa có và phá hỏng tâm từ đã có. Niệm ngăn lại tham, sân, si xâm nhập tâm và giúp cho tuệ phát sinh bứng gốc tham, sân si như mặt trời mọc lên phá tan những hạt sương đêm.

Tịnh căn là điều kiện cần thiết cho tâm từ và đạo lộ giải thoát cũng không thể thiếu tịnh căn. Thu thúc căn không phải chỉ nhắm vào những đối tượng khả ái, ngay cả những đối tượng không khả ái cũng phải thu thúc và đối với người tu tập tâm từ cần quan tâm hơn vì là đối tượng sinh sân. Khi đối với những đối tượng khả ái, không khả ái không có nắm giữ tướng chung hoặc tiếng riêng thì mới có xả ly, không rơi vào tham với đối tượng khả ái và sân với đối tượng không khả ái. Người chưa có duyên gặp Pháp của đấng Giác ngộ khi tu tập tịnh căn chỉ chú trọng vào hình thức như nhắm mắt, bịt tai hoặc thực hành nhiều loại khổ hạnh. Tất cả những thứ đó không thể tịnh căn được. Muốn có tịnh căn, đòi hỏi một tâm trí ý thức, tỉnh thức cao độ (còn gọi là niệm thu thúc) khi các căn tiếp xúc các cảnh, như người giữ cửa cơ quan quốc phòng. Do đó, tịnh căn không thể có nơi người dể duôi (phóng dật) mà chỉ có nơi người hướng về nội tâm, sống với nội tâm, là người thực hành pháp trong đời sống.

------

12- Nipako: Minh trí

Người có tính minh trí là người có trí sáng suốt khi quyết định việc gì. Thế nào là không minh trí? Hành động nông cạn, mù quáng không biết biết hậu quả tai hại do mình tạo ra. Minh trí là yếu tố bảo vệ sự an vui về mọi phương diện. Khi ăn có minh trí sẽ quyết định món nào nên ăn và món nào không nên ăn vì lợi ích cho sức khỏe. Khi hành động quyết định điều nào tốt cho mình và người là điều nên làm và điều nào xấu cho mình và người là điều không nên làm. Khi nói cũng căn cứ vào tốt, xấu để quyết định. Khi suy nghĩ cũng vì an lạc cho mình và người mà quyết định điều nên theo và điều từ bỏ. Có chỗ dịch nipako là thận trọng. Dịch như vậy không sai vì người sáng suốt luôn luôn dè dặt, đắn đo, không liều lĩnh, trước khi làm điều gì đều có suy xét thận trọng trong mọi việc.

Muốn nhận diện một người tốt, xấu, thành thực, không thành thực phải là người có trí tuệ (paññavā). Một người có trí tuệ không nhẹ dạ, cả tin vào lời nói và vẻ ngoài , nhưng tìm hiểu sâu con người thực qua tấm gương thân, khẩu, ý của bất cứ ai. Người có trí tuệ (paññavā) đồng nghĩa với người có minh trí (nipako) Trong tu tập cũng cần đến minh trí, như trong trường hợp tâm từ. Bất cứ vấn đề gì có hại cho tâm từ thì phải sáng suốt nhận ra để từ bỏ, chẳng hạn như một nghịch cảnh nào đó dễ làm phát sân thì phải dùng minh trí để hiểu biết sân là có hại cho tâm từ và không quan tâm nghịch cảnh đó. Sân bùng phát vì phi như lý tác ý với những đối tượng không khả ái (tức là những thứ không thích). Do phi như lý tác ý nên mới quan trọng vấn đề và không xả ly được sân đối với những pháp không khả ái.

Từ cách đối nhân xử thế đến cách tu tập cần có minh trí để ngăn ngừa phiền não phát sinh. Một tâm an tịnh cần thiết cho đời sống giao tiếp cũng như đời sống nội tâm khi phát triển thiền tâm từ và tuệ quán. Do đó, minh trí là pháp bảo vệ các thiện pháp luôn luôn hiện diện nơi người có nội tâm chín chắn.

---

13 – Appagabbho: Nhã nhặn

Na + Pagabbha = Appagabbha

Na đứng trước phụ âm biến thành A + pagabbha = Appagabbha

Na là không; pagabbha là thô lỗ, vô lễ. Appagabbho là người có tính nhã nhặn. Người không nhã nhặn là người tỏ ra bất lịch sự khi giao tiếp với mọi người. Những việc làm, lời nói gây khó chịu hoặc có hại cho người được thực hiện bất kể phản ứng bất bình. Người không nhã nhặn đề cao mình, không quan tâm đến người khác cho nên có những cử chỉ bất lịch sự như vứt rác, khạc nhổ trên đường, làm ồn nơi yên tĩnh, ăn nói thô lỗ, tâm niệm vô lễ, bất kính, vô ân…

Người có tính nhã nhặn không làm như vậy vì tôn trọng người khác, nghĩ đến lợi ích của người khác. Tính nhã nhặn biểu hiện qua thân, khẩu và ý. Trước khi có tâm từ thì phảỉ có thân nhã nhặn, khẩu nhã nhặn, ý nhã nhặn. Nếu tâm từ đem lại an vui, hạnh phúc cho chúng sanh, thì nhã nhặn của thân, khẩu , ý mang đậm nét lịch sự, trang trọng làm cho người khác hoan hỷ. Nhã nhặn ví như những vật trang điểm cho tâm từ hoàn hảo hơn.

Nhã nhặn cần thiết cho tâm từ và nếp sống văn minh cũng không thể thiếu nhã nhặn, có lẽ văn hóa người Nhật có bản sắc đặc biệt nhờ biết phát huy tính nhã nhặn trong ý thức cộng đồng.

--------

14- Kulesu ananugiddho: Không quyến luyến trong các gia đình

Na + Anugiddha

Na đứng trước nguyên âm trở thành An : An + anugiddha = Ananugiddha

Kulesu là trong các gia đình. Ananugiddho là người không quyến luyến. Anugiddho dịch là người quyến luyến theo nghĩa tham luyến, luyến ái. Ananugiddho là người không quyến luyến theo nghĩa không tham luyến, không luyến ái.

Một người xuất gia đối với gia đình của mình và gia đình các thí chủ nếu có tâm quyến luyến, vui theo niềm vui của họ, buồn theo nổi buồn của họ thì sẽ gây trở ngại cho việc phát triển định, tuệ của đời sống phạm hạnh. Người tại gia chưa biết tâm từ là gì sẽ duy trì tâm quyến luyến với gia đình và những người thân thiết. Một thanh niên yêu tha thiết cô bạn gái và ngày kia cô bạn chia tay anh để tìm đến người khác và anh bạn này phản ứng bằng cách giết người mình từng yêu tha thiết. Đây không phải là tâm từ, đây là tâm quyến luyến, xuất phát từ lòng tham muốn độc chiếm cho mình, khi không toại nguyện thì biến màu thành tâm thù hận.

Người có tính quyến luyến sẽ gây trở ngại cho tâm từ vì quyến luyến người nào thì tham luyến mạnh vào người đó, tham ưu sẽ phát sinh và không thể phát triển tâm từ được. Pháp cú: Ái luyến sinh sầu ưu, ái luyến sinh sợ hãi, ai thoát khỏi luyến ái, không sầu, đâu sợ hãi? (Pc:213, HT. Thích Minh Châu dịch).

Một câu hỏi đặt ra là nếu một người áp dụng tâm từ, không có tâm quyến luyến người thân yêu và bạn bè thì sẽ mất đi tình cảm nồng hậu và người này trở thành kẻ khô khan tình cảm? Thực ra thì ngược lại, người có tâm quyến luyến do hạn hẹp vào những người mình thương yêu sẽ không công bằng với những người khác, do vậy tình cảm không nồng hậu, yêu ghét thiên lệch nên không sẵn sàng giúp đỡ những người khác đang đau khổ, chỉ lo nghĩ đến ai mình quyến luyến. Nếu có mười người quyến luyến thì sẽ khổ vì mười người khi họ gặp bất hạnh, càng có nhiều càng sầu muộn nhiều, tâm thường bất an vì những người mình quyến luyến, đây là vị kỷ. Người có tâm từ đối với thân nhân, vì không bị tham luyến chi phối nên dành cho người thân bằng tâm từ bao la, tình cảm luôn nồng hậu, sẵn sàng hy sinh lợi ích riêng vì người thân. Đối với bạn bè và người khác cũng nồng hậu, đầy tình người, xử sự phân minh, đây là vị tha. Ưu điểm của tâm từ so với tâm tham luyến là người có tâm từ vẫn giữ được tâm bình an khi những ngưòi thân và bạn bè gặp cảnh vô thưòng. Không ưu bi, sầu muộn là biểu hiện của tâm từ. Gặp cảnh sinh ly, tử biệt là khóc, khóc càng nhiều càng tốt để chứng tỏ có tình thương. Nhưng đây là tình thương quyến luyến, bi lụy, nội tâm non nớt, không phải tình thương của tâm từ. Sự ưu bi, than khóc không giải quyết được điều gì cho người đau khổ. Sự bình an, bình tĩnh sẽ giải quyết mọi sự một cách sáng suốt và đó là biểu hiện của nội tâm già dặn.

Do đó, tâm từ cũng như các pháp môn giải thoát cần phải có tâm không quyến luyến đối với bất cứ ai.

---
15- Na ca khuddamācare kiñci: Không làm bất cứ ác hạnh nào dù là nhỏ nhặt.

Trong Pāli Miến và Tam tạng Pāli đã kết tập lần thứ sáu:

Na ca khuddamācare kiñci, yena viññū pare upavadeyyuṃ

Không làm bất cứ ác hạnh nào dù là nhỏ nhặt mà do đó các bậc có trí khác có thể chê trách.

Trong Pāli Tích Lan:

Na ca khuddaṃ samācare kiñci

Yena viññū pare upavadeyyuṃ

So sánh hai câu:

Khuddamācare = khuddaṃ ācare

Khuddaṃ samācare

Ācare là khả năng cách của động từ ācarati (xử sự, thực hiện)

Samācare = tiền tố saṃ (củng với) + ācarati (xử sự, thực hiện) = cùng xử sự, cùng thực hiện.

Do đó, về ngữ pháp và ý nghĩa hai câu đều giống nhau.

Ác hạnh (duccarita) là hạnh kiểm, hành vi xấu, ác. Có ba là: kāyaduccarita (ác hạnh về thân), vacīduccarita (ác hạnh về khẩu), manoduccarita (ác hạnh về ý).

Yena viññū pare upavadeyyuṃ

Mà do đó các bậc có trí (viññū) khác (pare) có thể chê trách (upavadeyyuṃ).

viññū pare (các bậc có trí khác). Pare là tính từ bổ nghĩa cho viññū, chứa đựng ý nghĩa rất thâm thúy trong kinh điển Pāli. Nơi đây, ngoài ra chính mình là khác, là tha nhân. Người có trí khác, nghĩa là tha nhân là người có trí. Tha nhân mà vô trí không phải là đối tượng được đề cập làm mẫu mực. Bởi vì đối với kẻ vô trí xem điều không có tội thành có tội, đều có tội ít thành có tội nhiều. Còn bậc có trí làm việc gì cũng xem xét, cân nhắc thận trọng. Phê bình, chỉ trích điều đáng phê bình, chỉ trích; ca tụng, tán dương điều đáng ca tụng, tán dương. Nếu một lỗi lầm nhỏ mà bị những bậc có trí chê trách thì đó là việc rất trầm trọng, phải sửa đổi ngay, nếu không thì hậu quả tai hại sẽ đến. Theo kinh điển Pāli, thế giới này hưng thịnh, tồn vong không phải do đa số, cũng không phải do thiểu số. Chính sự có mặt hoặc vắng mặt của các bậc có trí tạo ra sự tồn vong trong cuộc đời, dù chỉ có vài người có trí cũng đủ đem lại tốt đẹp cho đời. Một Phật ngôn trong Tương ưng bộ kinh nêu rõ rằng ‘ Một hội trường không có bậc trí thì nơi đó trở thành trống không’.

Tránh làm ác hạnh, ngay cả điều nhỏ nhặt cũng không khinh thường để các bậc có trí không chê trách. Đó là cách giữ tàm (hổ thẹn tội lỗi) và quý (ghê sợ tội lỗi) nơi tâm. Một kẻ làm điều xấu bất kể đến tiếng nói của các bậc trí thì vô tàm, vô quý sẽ làm hư hỏng thiện pháp của người đó và ngay đời sống này sẽ thành đọa lạc. Tàm Quý là pháp bảo vệ thế giới (lokapāla). Các bậc có trí là gương mẫu của nếp sống tàm quý, cho nên tiếng nói của tha nhân này rất có trọng lượng khi đánh giá hành vi của mình. Biết quý trọng các bậc có trí qua việc tránh xa từng ác hạnh cỏn con thì tàm, quý được bảo trì và các thiện hạnh, giới hạnh được tăng trưởng. Một người như thế sẽ gặp nhiều thuận lợi khi phát triển tâm từ.

Chớ chê khinh điều ác,

Cho rằng "chưa đến mình",

Như nước nhỏ từng giọt,

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người ngu chứa đầy ác

Do chất chứa dần dần.

Chớ chê khinh điều thiện

Cho rằng "chưa đến mình",

Như nước nhỏ từng giọt,

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người trí chứa đầy thiện,

Do chất chứa dần dần.

(Kinh Pháp cú 121-122 HT. Thích Minh Châu dịch)

---
Đã hoàn thành 15 đức tính.
-----o-----

Mettasuttaṃ

(Kinh Tâm từ)

(dịch từng từ và chú thích)

Karaṇīyamatthakusalena, yantasantaṃ padaṃ abhisamecca

Karaṇīyamatthakusalena

Karaṇīya = kar (làm) + hậu tố anīya = Karaṇīya

Khi ngữ căn có tận cùng là r thì n của hậu tố biến thành ṇ, anīya = aṇīya.

Karaṇīya là phân từ thụ động tương lai, còn gọi là quá khứ phân từ khả năng cách. Karaṇīyaṃ vì hòa hợp với đại từ liên hệ yaṃ ( hòa hợp về tánh, số và cách , yaṃ thuộc trung tánh, số ít, chủ cách)

Atthakusalena: (chia theo sử dụng cách, số ít). Bởi người mà thông thạo về lợi ích

Attha (dt, nam, trung tính) là lợi ích.

Kusala (tính từ) là thiện, thông thạo, tinh thông, (dt, trung tính) sự thông thạo, điều thiện

Yantaṃ = yaṃ taṃ.

Yaṃ (những gì, điều nào) là đại từ liên hệ (trung tánh, số ít), taṃ (cái đó, điều đó) là đại từ chỉ định, dùng để nhấn mạnh đại từ liên hệ (hòa hợp về tánh, số và cách với yaṃ. Đa số bản dịch tiếng Anh tách taṃ ra và hòa hợp với santaṃ padaṃ thuộc đối cách số ít.

Santaṃ = (tính từ), tĩnh lặng, an tịnh

Padaṃ : (dt, trung tính), trạng thái

Santaṃ Padaṃ: trạng thái tĩnh lặng, đối cách của abhisamecca.

Abhisamecca: là danh động từ, còn gọi là bất biến quá khứ phân từ của động từ abhisameti (đạt đến, chứng ngộ, hiểu rõ)

Abhisamecca ( abhi+sam+ā+i+tya, ngữ tố tya biến thành - cca) Sau khi đạt đến, chứng ngộ, hiểu rõ.

Karaṇīyamatthakusalena, yantasantaṃ padaṃ abhisamecca

- Điều gì mà cần phải được làm bởi người thông thạo về lợi ích sau khi hiểu rõ trạng thái tĩnh lặng nên làm điều đó

- Người thông thạo lợi ích sau khi hiểu rõ trạng thái tĩnh lặng cần phải làm như sau.

Hoặc dịch thoát hơn:

Người mà thông thạo về lợi ích muốn đạt đến trạng thái tĩnh lặng đó nên làm như vầy.

Điều nên được làm, cần phải được làm là thân, khẩu, ý thanh tịnh, thực hành giới, định , tuệ.

Người thông thạo về lợi ích: Có những loại thông thạo như thông thạo ngoại ngữ, thông thạo nghề nghiệp. Đây cũng là thông thạo về lợi ích. Nhưng ý nghĩa thông thạo ở đây nhấn mạnh về mặt tinh thần, như Phật ngôn trong Tăng chi bộ kinh:

‘Ba hạng người xuất hiện ở đời: Người mù, người một mắt, người hai mắt.

Người mù, vì không có mắt để thu hoạch tài sản chưa có, làm cho hưng thịnh tài sản đã có. Không có mắt để biết được pháp thiện và pháp bất thiện, có tội và không có tội, pháp hạ liệt và pháp cao quý.

Người một mắt, vì có mắt để thu hoạch tài sản chưa có, làm cho hưng thịnh tài sản đã có, nhưng không có mắt để biết được pháp thiện và pháp bất thiện, có tội và không có tội, pháp hạ liệt và pháp cao quý.

Người hai mắt, vì có mắt để thu hoạch tài sản chưa có, làm cho hưng thịnh tài sản đã và có mắt để biết được pháp thiện và pháp bất thiện, có tội và không có tội, pháp hạ liệt và pháp cao quý. (Theo Tăng chi bộ kinh, phẩm người).

Hạng người hai mắt là thông thạo về lợi ích. Thông thao, tinh thông ở đây là hiểu rõ đường lối đưa đến thanh tịnh và giải thoát. Lợi ích ở đây có ba là lợi ích đời này, lợi ích đời sau và lợi ích Niết bàn. Người mù không biết lợi ích, Người một mắt chỉ hiểu lợi ích đời này. Người hai mắt hiểu lợi ích đời này, đời sau và cả Niết bàn. Đó là hạng người có mắt trí tuệ, sự thông thạo ở đây là thông thạo do trí tuệ.

Thông thạo về lợi ích là biết những gì nên làm (karaṇīyam) và những gì không nên làm (akaraṇīyam). Những gì không nên làm là điều gì đem lại thân, khẩu, ý ô nhiễm và chướng ngại cho sự đến Niết bàn.

Những dòng kệ ngắn này của Mettasuttaṃ là phần dẫn nhập để nêu ra cứu cánh của giáo pháp là trạng thái tĩnh lặng (tức là Niết bàn) và người muốn chứng ngộ cần phải thực hiện giới gồm có 15 đức tính, trong đó chứa hai mặt của giới là cāritta (những hạnh phải làm) và vāritta (những điều nên tránh xa). Kế đến là cần phải thực hành định, bao gồm những cách tu tập tâm từ rất chi tiết và phần cuối là cần phải thực hành tuệ, phát triển chánh kiến để tự mình chứng ngộ trạng thái tĩnh lặng (Niết bàn).

--------o-----

Mettasuttaṃ

(Kinh Tâm từ)

(dịch từng từ và chú thích)

Karaṇīyamatthakusalena, yanta santaṃ padaṃ abhisamecca;

Sakko ujū ca suhujū ca, sūvaco cassa mudu anatimānī

Kệ ngôn đầu tiên có bốn câu, hai câu đầu đã dịch và giải thích.

Hai câu kế tiếp là:

Sakko ujū ca suhujū ca, sūvaco cassa mudu anatimānī.

Sakka: (tính từ) có thể, có năng lực. Sakko hòa hợp về chủ cách số ít với (So ): vị ấy = vị tỳ kheo, bất cứ hành giả nào)

Uju: (tính từ) thẳng, chính trực

Ca: và

Suhuju: (tính từ) rất thẳng, rất chính trực

ujū ca suhujū ca: ở đây ū thay vì u vì uju ca suhuju, 6 âm tiết nhẹ liên tục

ujū ca suhujū ca: chính trực và rất chính trực

Suvaca: (tính từ) Dễ dạy, vâng lời

Tìm khắp từ điển không thấy chỗ nào có sūvaco, chỉ thấy trong câu kệ ngôn này. Nhưng có lẽ việc nhấn mạnh này không phải là luật cố định, vì bản Tích Lan vẫn dùng Suvaco.

Cassa: ca + assa : Assa: ngữ căn as (là, có) động từ khả năng cách, ngôi 3, số ít (vị ấy nên là, nên có).

Động từ thì hiện tại, ngôi 3, số ít là atthi, như động từ to be trong tiếng Anh.

Mudu: (tính từ) mềm, nhu hòa

Anatimānī: (tính từ) Na + atimānī

Na là từ phủ định, nghĩa là không. Na đứng trước một nguyên âm biến thành An. Do vậy thành An + atimānī = Anatimānī (không kiêu ngạo).

Dịch hai câu

Sakko ujū ca suhujū ca,

Vị ấy nên có năng lực, chính trực và rất chính trực

sūvaco cassa mudu anatimānī.

Dễ dạy, nhu hòa và không kiêu ngạo.

Assa (vị ấy nên) được sử dụng cho 14 đức tính, trừ đức tính 15.

--------o

Mettasuttaṃ - Kệ ngôn 2

(Kinh Tâm từ)

(dịch từng từ và chú thích)

Santussako ca subharo ca, appakicco ca sallahukavutti;

Santindriyo ca nipako ca, appagabbho kulesvananugiddho.

Santussaka: (tính từ) biết vừa đủ, hài lòng với những gì đã có.

Ca: và

Subhara: (tính từ) dễ nuôi

Appakicca: (tính từ) ít bận rộn

Sallahuka: (tính từ) nhẹ nhàng, đạm bạc

Vutti: (tính từ), có thói quen, có nếp sống, có hành vi

Sallahukavutti: có nếp sống thanh đạm

Santa: (tính từ) an tịnh

Indriya: (dt trung tính) căn, quan năng, giác quan. Lục căn là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn

Indriya: (tính từ) có căn, Santindriya: tịnh căn, có căn an tịnh, có lục căn an tịnh

Nipaka: (tính từ) minh trí, có trí sáng suốt

Appagabbha: (tính từ) nhã nhặn

Na đứng trước phụ âm biến thành A + pagabbha = Appagabbha

Na là không; pagabbha là thô lỗ, vô lễ. Appagabbha là nhã nhặn.

kulesvananugiddho

Kula: (dt trung tính) gia đình

ananugiddha: (tính từ) Na ( không) đứng trước nguyên âm trở thành An : An + anugiddha (quyến luyến) = Ananugiddha (không quyến luyến)

kulesvananugiddho

kulesva: 3 âm tiết + nanugiddho: 4 âm tiết

Bản Tích Lan

Kulesu ananugiddho

Kulesu (trong các gia đình) dễ đọc hơn, nhưng về âm vận thì kulesva chặt chẽ hơn.

Dịch:

Câu 1 -

Santussako ca subharo ca,

Vị ấy nên tri túc và dễ nuôi

Câu 2 -

Appakicco ca sallahukavutti;

Ít bận rộn và là người có nếp sống thanh đạm

Câu 3 -

Santindriyo ca nipako ca,

Lục căn an tịnh và minh trí

Câu 4 -

Appagabbho kulesvananugiddho

Nhã nhặn và là người không quyến luyến trong các gia đình.

-------

Mettasuttaṃ - Kệ ngôn 3

(Kinh Tâm từ)

(dịch từng từ và chú thích)

Na ca khuddamācare kiñci, yena viññū pare upavadeyyuṃ;

Sukhino va khemino hontu, sabbasattā bhavantu sukhitattā.

Câu 1: Na ca khuddamācare kiñci

Na: không; Ca: và

Khuddamācare = khuddaṃ ācare

Khudda (tính từ) nhỏ, nhỏ nhặt

Kiñci: (đại từ bất định) bất cứ cái gì

Ācare: vị ấy nên làm

Ācare là khả năng cách của động từ ācarati (xử sự, làm, thực hiện), thì hiện tại, ngôi 3, số ít. Hình thức này thường gặp trong thi kệ, hiếm khi tìm thấy trong văn xuôi.

Bản Tích Lan ‘Na ca khuddaṃ samācare kiñci’, dễ đọc và dễ nhận dạng hơn, nhưng ‘Na ca khuddamācare kiñci’ đúng âm vận hơn.

Dịch: Na ca khuddamācare kiñci

Vị ấy không nên làm bất cứ (lỗi) nhỏ nhặt nào

Kiñci là đối cách số ít, bổ nghĩa cho Kiñci là khuddaṃ

Câu 2: Yena viññū pare upavadeyyuṃ

Yena: sử dụng cách số ít của đại từ liên hệ ya, mà do cái nào, mà do bất cứ (lỗi) nhỏ nhặt nào. Ở đây được dùng như trạng từ, do đó.

Viññū: (danh từ nam tính) người có trí

Viññū trong câu là chủ cách số nhiều

Para: (tính từ): khác, pare bổ nghĩa cho Viññū

Upavadeyyuṃ: khả năng cách, thì hiện tại, ngôi 3, số nhiều của động từ Upavadati (chê trách, quở trách)

Dịch: Yena viññū pare upavadeyyuṃ

Do đó, các bậc có trí khác có thể chê trách

Dịch hai câu: Na ca khuddamācare kiñci,

Yena viññū pare upavadeyyuṃ

Vị ấy không nên làm bất cứ (lỗi) nhỏ nhặt nào.

Do đó, các bậc có trí khác có thể chê trách
-------

Mettasuttaṃ -

(Kinh Tâm từ)

  Kệ ngôn 3 (câu 3 - 4)

 (dịch từng từ và chú thích)

Sukhino va khemino hontu, sabbasattā bhavantu sukhitattā.

Sukhī: (tính từ) hạnh phúc, sukhino là số nhiều hòa hợp với chủ  cách số nhiều  sabbasattā (tất cả chúng sanh).

Khemī: (tính từ) an ổn, bình an. Khemino là số nhiều hòa hợp với chủ  cách số nhiều  sabbasattā

Văn kệ ngôn cô động nên  chủ  cách số nhiều  sabbasattā cũng  áp dụng cho Sukhino và khemino.  Câu 3 nên hiểu rộng như vầy:

Sabbasattā Sukhino hontu (mong cho tất cả chúng sanh được hạnh phúc), sabbasattā khemino hontu (hoặc mong cho tất cả chúng sanh được bình an) 

Câu 4:

sabbasattā bhavantu sukhitattā (hoặc mong cho tất cả chúng sanh được an lạc)

Va  là hình thức rút ngắn của vā  (hoặc).  Chúng ta thấy  rằng  kệ ngôn 01  đến  câu 1, 2  của kệ ngôn 03 dùng liên từ  CA, nghĩa là và để liệt kê 15  đức tính.  Đến câu  3, 4  của kệ ngôn 03  và những kệ ngôn tiếp theo dùng liên từ  VĀ, nghĩa là hoặc để phân loại các đối tượng của tâm từ.  Liên từ  vā  (hoặc) không liệt kê mà phân loại  các đối tượng tâm từ  đi từ  đối tượng này đến đối tượng khác,  từ hạn lượng đến vô biên giới.

Hontu: mệnh lệnh cách ngôi 3, số nhiều, mong họ là

Sabbasattā: tất cả chúng sanh

Bản tích Lan

Sukhino vā khemino hontu
Sabbe  sattā bhavantu sukhitattā

Sự sai khác này là do cách sử dụng thể loại thi kệ khác nhau.

Bhavantu: mệnh lệnh cách ngôi 3 số nhiều, mong họ là, trở thành

Sukhitattā: (tính từ)   an lạc, hòa hợp về chủ cách số nhiều với sabbasattā

Dịch

Câu 3:

Sukhino va khemino hontu,

Mong cho tất cả chúng sanh được hạnh phúc

khemino hontu (hoặc mong cho tất cả chúng sanh được bình an) 

Câu 4:

Sabbasattā bhavantu sukhitattā.

Hoặc mong cho tất cả chúng sanh được an lạc

Theo chú giải Sukhitattā  nghĩa là sukhitacittā (tâm hạnh phúc)  và  Sukhino nghĩa là kāyikena sukhena (thân hạnh phúc) . Atta  không phải là attā (tự ngã, hoặc chính mình). Atta  là  hậu tố  tạo thành một loại tính từ.   Theo học giả Pāli Maung Tin thì Sukhitatta ch có nghĩa là hạnh phúc, thanh thản. Do vậy Sukhitattā nên dịch là an lạc để lấy được hai nghĩa  thanh thản (an) và lạc (hạnh phúc)  và  cũng chuyển được nghĩa sukhitacittā  của chú giải.

Kệ ngôn 1 cho đến kệ ngôn 3 (câu 1, 2) diễn tả 15 đức tính cần phải có trước khi thực hành tâm từ. Trong đó, 14  đức tính gọi là Karaṇīya (những điều nên làm và đức tính 15 gọi là Akaraṇīya (điều không nên làm).

Kệ ngôn 3 (câu 3,4) bắt đầu phần thực hành tâm từ,  rải  chung cho tất cả chúng sanh,  tùy trường hợp áp dụng theo ba cách.
----------- 

Kệ ngôn 4

(dịch từng từ và chú thích)

Ye keci pāṇabhūtatthi, tasā vā thāvarā vanavasesā;

Dīghā vā ye va mahantā majjhimā rassakā aṇukathūlā.

Ye : đại từ liên hệ số nhiều, chủ cách

Keci: đai từ bất định số nhiều

Ye keci: đại từ liên hệ bất định, chủ cách số nhiều, bất cứ ai mà là

Pāṇabhūtā : (chúng sanh, pāṇa là chúng sanh có hơi thở, bhūta là chúng sanh đang sinh tồn - pāṇabhūtā là chỉ chung tất cả chúng sanh không loại trừ loài nào) d. từ nam tính, số nhiều, hòa hợp với Ye keci;

Atthi: (là, có) thì hiện tại ngôi 3 số ít. Ye keci pāṇabhūtā là chủ cách số nhiều, động từ ngôi 3 phải là số nhiều santi, nhưng tại sao lại dùng atthi là số ít? Đây là văn thi kệ, dùng atthi để thích hợp với nhịp thơ.

Hãy xem, kệ ngôn 202 trong Dhammpapada:

Natthi khandhasamā dukkhā (không có khổ nào bằng khổ uẩn). Dukkhā là chủ cách số nhiều. Động từ ngôi 3 phải là số nhiều, nhưng nơi đây dùng atthi là số ít theo luật thi kệ.

Dịch: Ye keci pāṇabhūtatthi (bất cứ chúng sanh nào mà là)

***

Bài nên đọc

Mettasuttaṃ -

(Kinh Tâm từ)

Kệ ngôn 4 - 5

(dịch từng từ và chú thích)

Ye keci pāṇabhūtatthi, tasā vā thāvarā vanavasesā;

Dīghā vā ye va mahantā majjhimā rassakā aṇukathūlā.

Ye : đại từ liên hệ số nhiều, chủ cách

Keci: đai từ bất định số nhiều

Ye keci: đại từ liên hệ bất định, chủ cách số nhiều, bất cứ ai mà là

Pāṇabhūtā : (chúng sanh, pāṇa là chúng sanh có hơi thở, bhūta là chúng sanh đang sinh tồn - pāṇabhūtā là chỉ chung tất cả chúng sanh không loại trừ loài nào) d. từ nam tính, số nhiều. Một số dịch giả cho rằng danh từ này là trung tính, nhưng hai học giả thông suốt Pāli là Buddhadatta và Maung Tin đều gọi là danh từ nam tính.

Atthi: (là, có) thì hiện tại ngôi 3 số ít. Ye keci pāṇabhūtā là chủ cách số nhiều, động từ ngôi 3 phải là số nhiều santi, nhưng tại sao lại dùng atthi là số ít? Đây là văn thi kệ, dùng atthi để thích hợp với nhịp thơ.

Hãy xem, kệ ngôn 202 trong Dhammpapada:

Natthi khandhasamā dukkhā (không có khổ nào bằng khổ uẩn). Dukkhā là chủ cách số nhiều. Động từ ngôi 3 phải là số nhiều, nhưng nơi đây dùng atthi là số ít theo luật thi kệ.

Dịch:Ye keci pāṇabhūtatthi (bất cứ chúng sanh nào mà là)

Kệ 4 – câu 2

Tasā vā thāvarā vanavasesā

Tasā (tính từ) xao động, chỉ cho chúng sanh còn ái

Vā: hoặc

Thāvarā (tính từ) không xao động, chỉ cho chúng sanh không còn ái (bậc A la hán). Phần lớn các bản dịch tasā là yếu; thāvarā là mạnh. Nếu hiểu yếu, mạnh về phương diện thể chất cũng đúng, nhưng căn cứ theo chú giải thì yếu, mạnh là chỉ cho tinh thần, ai còn ái là còn yếu, dứt ái là mạnh (A la hán).

Vanavasesā = vā (hoặc) + anavasesā

na (không) + avasesā (dư sót), na đứng trước nguyên âm biến thành an = anavasesā (không dư sót, không bỏ sót)

Tasā vā thāvarā vanavasesā

Xao động hoặc không xao động, khộng bỏ sót chúng sanh nào

Kệ 4 – câu 3

Dīghā vā ye va mahantā

Dīghā (tính từ) dài

Vā : hoặc

Ye: đại từ liên hệ, những ai mà

Va: hình thức rút ngắn của Vā (hoặc)

Mahantā (tính từ) lớn

Dīghā vā ye va mahantā

Những chúng sanh mà dài hoặc lớn

Kệ 4 - câu 4

Majjhimā rassakā aṇukathūlā

Majjhimā (tính từ) trung bình, vừa

Rassakā (tính từ) ngắn

Aṇukā (tính từ) vi tế, nhỏ, ốm

thūlā. (tính từ) thô kệch, mập

majjhimā rassakā aṇukathūlā

Trung bình, ngắn, tế, thô

--------

Kệ 5

Diṭṭhā vā ye va adiṭṭhā , ye va dūre vasanti avidūre;

Bhūtā va sambhavesī va , sabbasattā bhavantu sukhitattā.

Câu 1

Diṭṭhā vā ye va adiṭṭhā

Diṭṭhā (quá khứ phân từ của passati) tính từ , được thấy

Vā: hoặc

Ye : đại từ liên hệ (các chúng sanh) mà

va: hình thức rút ngắn của vā (hoặc)

Adiṭṭhā (tính từ ) không được thấy

Diṭṭhā vā ye va adiṭṭhā

Các chúng sanh mà được thấy hoặc không được thấy

Câu 2

ye va dūre vasanti avidūre

Ye: đại từ liên hệ (các chúng sanh) mà

Dūre (tính từ ) xa, hòa hợp với chủ từ số nhiều pāṇabhūtā

Va: hình thức rút ngắn của vā (hoặc)

Vasanti (động từ ngôi 3 số nhiều, thì hiện tại) sống, ở

Avidūre (tính từ ) không xa, gần, hòa hợp với chủ từ số nhiều pāṇabhūtā

ye va dūre vasanti avidūre

Các chúng sanh mà ở xa hoặc ở gần

Câu 3

Bhūtā va sambhavesī va

Bhūtā (quá khứ phân từ của bhavati), tính từ, được sinh ra, đã sinh

Va: hình thức rút ngắn của vā (hoặc)

Sambhavesī (tính từ ) chưa sinh, đang tìm sự sinh

Bhūtā là đã được sinh ra, hoặc không còn tầm cầu tái sinh, tức là bậc A la hán, sambhavesī chưa được sinh ra như còn trong bụng mẹ, còn trong trứng chưa nở ra, hoặc chúng sanh còn tìm cầu tái sanh nơi này nơi kia.

Va: hình thức rút ngắn của vā (hoặc)

Bhūtā va sambhavesī va

Các chúng sinh đã sinh hoặc chưa sinh

Câu 4

Sabbasattā bhavantu sukhitattā

Mong cho tất cả chúng sanh được an lạc

------

Pháp môn tu tập trong kinh tâm từ

Kệ 3 - câu 3 và 4

Sukhino va khemino hontu, sabbasattā bhavantu sukhitattā

Cách rải chung tất cả chúng sanh

Sabbe sattā Sukhino hontu (mong cho tất cả chúng sanh được hạnh phúc)

Sabbe sattā khemino hontu (mong cho tất cả chúng sanh được bình an)

Sabbe sattā sukhitattā hontu (mong cho tất cả chúng sanh được an lạc thân tâm)

Mong cho tất cả chúng sanh được hạnh phúc, bình an và an lạc thân tâm.

------
Kệ 4

Ye keci pāṇabhūtatthi, tasā vā thāvarā vanavasesā;

Dīghā vā ye va mahantā , majjhimā rassakā aṇukathūlā.

Cách rải chia chúng sanh thành hai loại

Câu 2

Tasā vā thāvarā (cặp xao động và không xao động)

- Tasā anavasesā sabbe sattā bhavantu sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh còn xao động, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

- Thāvarā anavasesā sabbe sattā bhavantu sukhitattā

- (Mong cho tất cả chúng sanh không còn xao động, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

Mong cho tất cả chúng sanh còn xao động và không còn xao động, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

------

Kệ 4

Dīghā vā ye va mahantā, majjhimā rassakā aṇukathūlā

Cách rải chia chúng sanh thành ba loại

Câu 3 - 4

- Dīghā anavasesā sabbe sattā bhavantu

sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh thuộc loại dài, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

- Rassakā anavasesā sabbe sattā bhavantu

sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh thuộc loại ngắn , không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

- Majjhimā anavasesā sabbe sattā bhavantu sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh thuộc loại trung bình , không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm

Mong cho tất cả chúng sanh thuộc loại dài, ngắn và trung bình không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm

• Trung bình = không quá dài, không quá ngắn

- Mahantā anavasesā sabbe sattā bhavantu

sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh thuộc loại lớn, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

- Aṇukā anavasesā sabbe sattā bhavantu

sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh thuộc loại nhỏ , không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

- Majjhimā anavasesā sabbe sattā bhavantu

sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh thuộc loại trung bình, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

Mong cho tất cả chúng sanh thuộc loại lớn, nhỏ và trung bình không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm.

& Trung bình= không quá lớn, không quá nhỏ

Cách rải chia chúng sanh thành ba loại tiếp theo

- Thūlā anavasesā sabbe sattā bhavantu sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh thuộc loại thô, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

- Aṇukā anavasesā sabbe sattā bhavantu sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh thuộc loại tế, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

- Majjhimā anavasesā sabbe sattā bhavantu sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh thuộc loại trung bình , không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

Mong cho tất cả chúng sanh thuộc loại thô, tế và trung bình, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm

& Trung bình = không quá thô, không quá tế

-------

Kệ 5

Diṭṭhā vā ye va adiṭṭhā , ye va dūre vasanti avidūre;

Bhūtā va sambhavesī va , sabbasattā bhavantu sukhitattā.

Cách rải chia chúng sanh thành hai loại

Câu 1 - Diṭṭhā vā ye va adiṭṭhā

- Diṭṭhā anavasesā sabbe sattā bhavantu sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh được thấy, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

- Adiṭṭhā anavasesā sabbe sattā bhavantu sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh không được thấy, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

Mong cho tất cả chúng sanh được thấy và không được thấy, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm.

Câu 2 - ye va dūre vasanti avidūre

- Dūrā anavasesā sabbe sattā bhavantu sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh ở xa, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

- Avidūrā anavasesā sabbe sattā bhavantu sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh ở gần, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

Mong cho tất cả chúng sanh ở xa và ở gần không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm.

Câu 3 – 4

Bhūtā va sambhavesī va sabbasattā bhavantu sukhitattā

- Bhūtā anavasesā sabbe sattā bhavantu sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh đã sinh, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

- Sambhavesī anavasesā sabbe sattā bhavantu sukhitattā (Mong cho tất cả chúng sanh chưa sinh, không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm)

Mong cho tất cả chúng sanh đã sinh và chưa sinh không bỏ sót ai, được an lạc thân tâm.

&

Majjhimā: dùng cho ba loại của nhóm ba (giữa dài và ngắn; giữa lớn và nhỏ; giữa thô và tế)

Aṇukā: dùng cho hai loại của nhóm ba (nhỏ và tế)

Điểm đặc biệt của kinh tâm từ là ba cách tu tập - rải chung tất cả chúng sanh, rải chia chúng sanh thành hai loại, rải chia chúng sanh thành ba loại. Trong ba cách này không kể tên chúng sanh, chỉ nêu ra những tính từ để nói lên đặc điểm như dài, ngắn, lớn, nhỏ, thô, tế.

--------------

KỆ NGÔN 6

(dịch từng từ và chú thích)

Na paro paraṃ nikubbetha, nātimaññetha katthaci na kañci

Byārosanā paṭighasaññā, nāññamaññassa dukkhamiccheyya.

Na: không

Paro: chủ cách, số ít, người ta, người khác, tức là người thực hành tâm từ.

paraṃ: đối cách, số ít, một người khác, đối tượng của tâm từ

Nikubbati: động từ thì hiện tại, ngôi 3, số ít, nikubbetha, lừa dối, khả năng cách, attanopada, ngôi 3 số ít

Na + atimaññetha = không khinh thường, khả năng cách, attanopada, ngôi 3 số ít

Katthaci : trạng từ, bất cứ nơi nào

Na kañci = naṃ kañci = đại từ chỉ định naṃ (kẻ đó) và kañci đại từ bất định (bất cứ ai)

Byārosanā = Byārosanāya, danh, nữ tính, sử dụng cách, số ít, do tức giận, phẫn nộ. Byārosanā, biểu hiện nơi thân, khẩu

Paṭighasaññā = paṭighasaññāya, danh, nữ tính, sử dụng cách, số ít , do tưởng bất bình, do ác cảm. Paṭighasaññā, ngấm ngầm nơi ý

Nāññamaññassa: na ( không) +āñña+ maññassa – chỉ định cách số ít, cho một người khác

Dukkhamiccheyya = dukkham (đau khổ, đối cách số ít, trung tính) + iccheyya, khả năng cách, ngôi 3, số ít, nên muốn, mong muốn

Icchati: động từ thì hiện tại ngôi 3 số ít,

Na paro paraṃ nikubbetha, nātimaññetha katthaci na kañci

Byārosanā paṭighasaññā, nāññamaññassa dukkhamiccheyya

Người ta không nên lừa dối người khác, không nên khinh thường bất cứ ai đó, bất cứ nơi nào, không nên mong muốn làm khổ một ai do phẫn nộ hoậc ác cảm.

Giải thích:

Khắp thế giới nơi nào có bất công và đau khổ là nơi đó có lừa dối và khinh người. Người có tâm từ đem lại an lành cho mọi người, mọi chúng sanh nên phải tránh xa lừa dối và khinh thường người khác dù có sự khác biệt về địa vị, trình độ, màu da.

Sự đáp trả khi bị đụng chạm, mong cho đối phương gặp tai nạn, chết chóc là cách ứng xử của người sống với tâm sân. Người có tâm từ dù bị đối xử không tốt vẫn không để cho tâm sân sai khiến, vẫn mong cho kẻ không tốt với mình được an lạc. Kệ ngôn 6 này nêu cao tầm quan trọng của tâm từ, đối nghịch với tâm sân. Kệ ngôn này cũng cho thấy tâm từ đem lại một thế giới an bình qua cách biểu hiện từ nội tâm đến ngoại cảnh. Thế giới hiện đại đưa ra nhiều đối sách cho hòa bình nhưng không hiệu quả. Trong khi đó hơn 2500 năm trước Đức Phật đã chỉ dẫn pháp môn hiệu quả cho thế giới là tâm từ và chỉ rõ nhân quả đưa đến hòa bình qua kệ ngôn 6 này.

--------

Mettasuttaṃ - Kệ ngôn 7

(Kinh Tâm từ)

(dịch từng từ và chú thích)

Mātā yathā niyaṃ puttamāyusā ekaputtamanurakkhe;

Evampi sabbabhūtesu, mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ

Mātā: d. từ nữ tính, chủ cách số ít, từ danh từ Mātu (mẹ)

Yathā: trạng từ, giống như, cũng như

Niyaṃ: tính từ của riêng mình, hòa hợp với đối cách số ít puttaṃ

Puttamāyusā = puttaṃ āyusā

puttaṃ: đối cách số ít, con trai, từ putta – d. từ nam tính.

Niyaṃ puttaṃ (con ruột)

Āyusā: sử dụng cách số ít, bằng cả mạng sống, dù nguy hiểm đến mạng sống, từ āyu, d. từ trung tính (tuổi thọ, sinh mệnh)

Ekaputtamanurakkhe = Ekaputtaṃ anurakkhe

Ekaputtaṃ: đối cách số ít, con một, bổ nghĩa cho Niyaṃ puttaṃ

Anurakkhe: khả năng cách, ngôi 3, số ít (quyết bảo bọc), từ động từ anurakkhati (che chở, bảo bọc)

Câu 1 và 2: hai câu liên kết với nhau

Mātā yathā niyaṃ puttamāyusā ekaputtamanurakkhe

Như người mẹ quyết bảo bọc con ruột là đứa con một dù nguy hiểm đến mạng sống.

Câu 3: Evampi sabbabhūtesu

Cũng vậy, đối với tất cả chúng sanh

Evampi (cũng như vậy = evaṃ, trạng từ (như vậy), pi từ api, bất biến từ, cũng

Sabbabhūtesu: định sở cách số nhiều, trong tất cả chúng sanh, đối với tất cả chúng sanh. Từ sabba (tính từ, tất cả) và bhūta (d. từ trung tính, chúng sanh)

Câu 4: mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ

(Vị hành giả) nên tu tập tâm từ vô lượng

Mānasaṃ: d. từ trung tính, đối cách số ít, từ mānasa (ý, ý định, chỉ cho mettā, tâm từ)

Bhāvaye: khả năng cách, ngôi 3, số ít (nên tu tập, nên phát triển), từ động từ Bhāvati

Aparimāṇaṃ: tính từ , không giới hạn, vô lượng

Mātā yathā niyaṃ puttamāyusā ekaputtamanurakkhe;

Evampi sabbabhūtesu, mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ

Như người mẹ quyết bảo bọc con ruột là đứa con một dù nguy hiểm đến mạng sống,

Cũng vậy, (vị hành giả) nên tu tập tâm từ vô lượng

đối với tất cả chúng sanh.

-------

Āyusā: dù nguy hiểm đến mạng sống. Không có nghĩa là liều mạng, hoặc thí mạng một cách vô trí. Người mẹ che chở, bảo bọc đứa con ruột duy nhất không liều mạng, không thí mạng, bà phải sống để duy trì tình thương đó, nếu bà chết thì đứa con bơ vơ. Ý nghĩa là bà có thể đương đầu với mọi hiểm nguy, làm hết sức mình để che chở đứa con. Đây là lòng hy sinh cao cả của người mẹ, xuất phát tự đáy lòng, tận tâm bằng cả con người của bà không so đo, tính toán.

Lòng hy sinh cao cả là lòng vị tha cần phải có đối với chúng sanh, nhất là trong xã hội loài người. Một bác sĩ, một y tá cần phải có đức hy sinh này mới phục vụ bệnh nhân tận tình và đem lại niềm vui, lợi ích và hạnh phúc cho mọi người đau bệnh. Anh Trương Xuân Thức, lái tàu thống nhất trước phút nguy hiểm khi một xe tải băng qua đường sắt, anh phải dùng tay hãm phanh khẩn cấp để cứu tính mạng 300 hành khách và anh phải mất cánh tay cùng nhiều thương tật, đây là lòng hy sinh cao cả vì an lành của mọi người.

Tình thương của người mẹ là tình thương tham luyến, còn tâm từ là không tham luyến. Tại sao tu tập tâm từ vô lượng đối với tất cả chúng sanh như tình thương người mẹ? Tâm tham luyến của người mẹ là riêng của mỗi bà mẹ, tính cách tham luyến khác nhau. Còn tâm từ của người mẹ dành cho con là chung, là bất tử. Đó là tình mẫu tử cao cả, không có so đo, tính toán, hoàn toàn vô vị lợi dành cho con mà bà mẹ nào cũng có. Kệ ngôn nhấn mạnh con ruột và con một nữa thì tình thương này mạnh vô cùng, bà mẹ sẽ dành cả trái tim cho con mình. Chuyển sang tu tập tâm từ vô lượng giống như tình thương trọn vẹn đó, nhưng thay vì dành cho một đứa con, hành giả phát triển thành vô lượng đến tất cả chúng sanh. Tâm vị kỷ hạn hẹp chỉ co cụm trong gia đình, bạn bè, chủng tộc, loài người. Tâm từ vô lượng mở rộng khắp mọi người không phân biệt thân sơ, lan ra khắp thế giới, khắp chúng sanh. Tâm vô lượng này là bao la vì thoát ra khỏi bức tường ác cảm, sân hận, thù oán, cho nên đem lại rất nhiều tác dụng tích cực cho thế giới. Kệ ngôn này diễn tả ý nghĩa và cách tu tập tâm từ vô lượng không có chia cách, không có biên giới trái với tâm thường tình bị tù ngục trong những tư tưởng hạn hẹp và gây ra hậu quả đau thương mà chúng ta đã chứng kiến trên thế giới.

--------

Mettasuttaṃ - Kệ ngôn 8

(Kinh Tâm từ)

(dịch từng từ và chú thích)

Mettañca sabbalokasmi, mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ;

Uddhaṃ adho ca tiriyañca, asambādhaṃ averamasapattaṃ

Mettañ = mettaṃ, mettā là danh từ nữ tánh, metta là tính từ, mettaṃ ở đây là tính từ hòa hợp với mānasaṃ

Ca: và

Sabbalokasmi = Sabbalokasmim, định sở cách, số ít, trong tất cả thế giới, đối với tất cả thế giới

Mānasaṃ: đối cách số ít của mānasa (ý, ý định), danh từ trung tính. Mettaṃ mānasaṃ = mettamānasaṃ, đồng nghĩa mettacittaṃ (tâm từ)

Bhāvaye: khả năng cách, ngôi 3, số ít (nên tu tập, nên phát triển), từ động từ Bhāvati

Aparimāṇaṃ: tính từ , không giới hạn, vô lượng. Hòa hợp với mettamānasaṃ

Uddhaṃ: trạng từ, phía trên

Adho: trạng từ, phía dưới

Ca: và

Tiriyañca = tiriyaṃ ca (và)

Tiriyaṃ: trạng từ, phía bề ngang. Uddhaṃ và

Adho là hướng dọc trong không gian, tiriyaṃ là hướng ngang, tiriyaṃ bao gồm bốn phương chính, nói rộng ra là tám phương, bốn chính và bốn phụ. Uddhaṃ adho ca tiriyañca, nói về sáu phương hoặc mười phương theo nghĩa rộng.

Asambādhaṃ: a là không, sambādha, chướng ngại vật, rào cản, asambādhaṃ, tính từ, hòa hợp với mettamānasaṃ, không chướng ngại vật, không rào cản

Averamasapattaṃ = averaṃ asapattaṃ

Averaṃ: a là không, vera, oán thù. Averaṃ, tính từ, hòa hợp với mettamānasaṃ, không oán thù

Asapattaṃ: a là không, sapatta, kẻ thù,

Asapattaṃ, tính từ, hòa hợp với mettamānasaṃ, không có kẻ thù

------

Mettañca sabbalokasmi, mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ;

Uddhaṃ adho ca tiriyañca, asambādhaṃ averamasapattaṃ

Câu 1: Mettañca sabbalokasmi, Câu 2 : mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ

(vị hành giả) nên tu tập tâm từ vô lượng đối với tất cả thế giới

Câu 3: Uddhaṃ adho ca tiriyañca, asambādhaṃ averamasapattaṃ

Phía trên, phía dưới và phía bề ngang

Câu 4: Asambādhaṃ averamasapattaṃ

Không rào cản, không oán thù, không có kẻ thù

-------

Sabbalokasmi trong tất cả thế giới. Loka, thế giới, đồng nghĩa satta, chúng sanh. Kệ 8 chỉ dẫn tu tập tâm từ vô lượng khắp chúng sanh, khắp các phương hướng. Tâm từ vô lượng đó không rào cản, nghĩa là không còn phân chia mình với người khác, không phân chia người thân với kẻ thù, không phân chia người với chúng sanh. Không oán thù, không có kẻ thù, nghĩa là khi đạt đến tâm từ vô lượng thì tâm giải thoát khỏi lòng sân hận, một tình thương rộng lớn như vậy tồn tại trong tâm từ vô lượng. Ban đầu còn có sự chia cách người thân với người thù, người thương với người ghét, chúng sanh với chúng sanh, phạm vi nhỏ với phạm vi lớn. Khi tâm từ được phát triển thì mọi rào cản như thế không còn nữa, lúc đó tâm từ bao phủ tất cả thế giới như ánh trăng dịu hiền soi tỏ muôn loài không có phân biệt loài nào.

------

Mettasuttaṃ - Kệ ngôn 9

(Kinh Tâm từ)

(dịch từng từ và chú thích)

Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno va, sayāno yāvatāssa vitamiddho;

Etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya, brahmametaṃ vihāramidhamāhu.

-------

Tiṭṭhaṃ: (trong khi đứng), hiện tại phân từ của động từ tiṭṭhati (đứng)

Caraṃ: (trong khi đi), hiện tại phân từ của động từ carati (đi)

Nisinno: (trong khi ngồi), quá khứ phân từ của động từ nisīdati (ngồi)

Va = vā (hoặc)

Sayāno: (trong khi nằm), hiện tại phân từ của động từ sayati (nằm)

Yāvatāssa = yāvatā assa

yāvatā: bất biến từ, chừng nào

Assa: khả năng cách, ngôi 3, số ít (nên là). Động từ ngôi 3, số ít, thì hiện tại là atthi (là)

Vitamiddho = vigatamiddho. Vita, tính từ, không có. Middho: d. từ trung tính, buồn ngủ. Vigatamiddho là tính từ, không có buồn ngủ, nghĩa là còn thức, hòa hợp với (so ) chủ cách, nam tính số ít.

Etaṃ: chỉ định đại từ, dùng làm tính từ hòa hợp với satiṃ

Satiṃ: d. từ nữ tính, đối cách, số ít, niệm, tỉnh thức

Adhiṭṭheyya: (nên quyết tâm, nên chuyên tâm vào) khả năng cách, ngôi 3, số ít, từ động từ adhiṭṭhāti (quyết tâm, chuyên tâm vào)

Brahmametaṃ = brahmaṃ (tính từ, cao thượng hòa hợp với Vihāraṃ) - etaṃ (chỉ định đại từ, dùng làm tính từ hòa hợp với Vihāraṃ)

Vihāramidhamāhu = Vihāraṃ, idha, m, āhu

Vihāraṃ: nếp sống, chỗ trú, đối cách, d. từ nam tính, số ít. Brahmavihāra (phạm trú)

Idha: trạng từ, ở đây

M: một từ đệm để nối vần

Āhu: thì quá khứ, ngôi 3, số nhiều, họ đã nói. Đây là động từ của thì perfect bất định.

------

Dịch:

Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno va, sayāno yāvatāssa vitamiddho;

Etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya, brahmametaṃ vihāramidhamāhu.

Câu 1: Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno va,

Câu 2: sayāno yāvatāssa vitamiddho

Trong khi đứng, trong khi đi, trong khi ngồi hoặc trong khi nằm chừng nào còn thức.

Nisinno là quá không phân từ, tại sao không dùng hiện tại phân từ như ba động từ kia? Theo ngữ pháp Pāli, nếu quá khứ phân từ là transitive verb (tha động từ) thì có nghĩa thụ động, nếu quá khứ phân từ là intransitive verb (tự động từ) thì có nghĩa năng động, Nisinno là tự động từ, do đó dịch là trong khi ngồi như hiện tại phân từ. Đây là cách tránh cho câu văn rườm rà. Cách dùng này không phải chỉ có trong văn vần kệ ngôn mà cũng tìm thấy rất nhiều trong văn xuôi.

Câu 3: Etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya

(Hành giả) nên chuyên tâm vào niệm này

Câu 4: brahmametaṃ vihāramidhamāhu.

Nơi đây, họ đã nói rằng nếp sống này là cao thượng.

------

Trong khi đứng, trong khi đi, trong khi ngồi hoặc trong khi nằm chừng nào còn thức.

(Hành giả) nên chuyên tâm vào niệm này

Chuyên tâm vào (adhiṭṭhāti) là đặt hết tâm trí vào. Niệm này, tức là niệm về tâm từ. Niệm (sati) kết hợp với tâm từ . Tu tập tâm từ mà không có niệm thì không thể phát triển tâm từ được. Niệm sẽ giúp bảo vệ tâm từ lúc yếu cũng như lúc mạnh. Trong trường hợp nào cũng cần thiết có niệm.Trong bốn tư thế, đi, đứng, ngồi, nằm, khi còn thức, đều phải chuyên tâm vào niệm về tâm từ. Động từ adhiṭṭhāti, danh từ adhiṭṭhāna, ngoài nghĩa chuyên tâm, còn có nghĩa quyết tâm, quyết định. Một nguyện lực là adhiṭṭhāna sẽ có sức mạnh khi thiền tâm từ đi đến thuần thục (vasī). Lúc đó, một ý nghĩ tâm từ phát lên sẽ là nguyện lực đưa đến thảnh tựu như ý.

Hành giả không còn hạn chế trong tư thế ngồi, bất cứ tư thế còn lại, mỗi tâm từ khởi lên đều đem lại an lạc cho mình và chúng sanh. Đây là giai đoạn thiền đã thuần thục. Chừng nào còn thức, nghĩa là bất cứ thời gian nào từ lúc thức dậy cho đến giờ đi ngủ đều phải chuyên tâm vào niệm về tâm từ.

Nơi đây, họ đã nói rằng nếp sống này là cao thượng

Nơi đây là trong Phật Pháp. Họ đã nói rằng, nghĩa là tiếng nói của các bậc trí tuệ.

Nếp sống này là cao thượng, Brahmavihāra (phạm trú). Khi đã đạt đến thiền tâm từ, hành giả có được hiện tại lạc trú, dòng nước sân hận không còn lẫn lộn trong tâm từ cho nên gọi là an trú cao thượng

---------

Mettasuttaṃ - Kệ ngôn 10

(Kinh Tâm từ)

(dịch từng từ và chú thích)

Diṭṭhiñca anupaggamma, sīlavā dassanena sampanno;

Kāmesu vinaya gedhaṃ, na hi jātuggabbhaseyya punaretīti

-----

Diṭṭhiñ = diṭṭhiṃ, d. từ nữ tính, đối cách, số ít, quan điểm, kiến giải, micchādiṭṭhi (tà kiến), sammādiṭṭhi (chánh kiến). Diṭṭhi trong kệ này chỉ cho tà kiến

Ca: liên từ và

Anupaggamma: danh động từ, bất biến qk phân từ = an (không) + upaggamma (đến gần, tiêp cận), từ động từ anupagacchati (không đến gần, không tiếp cận, thoát ly)

Sīlavā: chủ cách, nam tính, số ít của danh từ sīlavantu, có giới hạnh, người có giới hạnh

Dassanena: với sự thấy, sử dụng cách, trung tính, số ít của danh từ dassana, sự thấy

sampanno: tính từ, hòa hợp với sīlavā. Sampanna là quá khứ phân từ của sampajjati, thành tựu

Kāmesu: định sở cách, nam tính, số nhiều của danh từ kāma, trong các dục. Kāma là ham muốn. Có hai loại: Phiền não dục (kilesakāma) và vật dục (vatthukāma). Phiền não dục là lòng ham muốn các đối tượng khơi dậy ham muốn, còn gọi là dục tham, dục ái. Vật dục là đối tượng làm phát sinh lòng dục, gồm có năm loại kāmaguṇa, thường dịch là ngũ trần, tức là các sắc, thinh, hương, vị, xúc khả ái.

Vinaya = vineyya (sau khi loại trừ, danh động từ, bất biến qk phân từ của vineti

Gedhaṃ: đối cách, nam tính, số ít của danh từ gedha, tham. Kāmesu gedha (sự ham muốn trong các dục)

Na: không

Hi: bất biến từ, thực vậy

Jātu: bất biến từ, chắc vậy

Gabbhaseyya = gabbhaseyyaṃ, đối cách, nữ tính, số ít của danh từ gabbhaseyyā (sự nằm trong bào thai, sự sinh vào bào thai)

Puna: bất biến từ, lần nữa

Retīti = r + eti + iti

R là từ nối âm

Eti: động từ ngôi 3, số ít, vị ấy đến, punareti (trở lại)

Iti: dùng như dấu chấm để kết thúc câu.

Dịch

Diṭṭhiñca anupaggamma, sīlavā dassanena sampanno;

Kāmesu vinaya gedhaṃ, na hi jātuggabbhaseyya punaretīti

Câu 1: Diṭṭhiñca anupaggamma: Sau khi thoát ly tà kiến

Câu 2: sīlavā dassanena sampanno: Có giới hạnh, thành tựu sự thấy

Câu 3: Kāmesu vinaya gedhaṃ: Sau khi loại trừ tham trong các dục

Câu 4: Na hi jātuggabbhaseyya punaretīti: Vị ấy chắc chắn không sinh trở lại bào thai nữa.(nghĩa bóng là không còn tái sinh nữa)

Ý nghĩa:

Thiền tâm từ thuộc về samathabhāvanā (chỉ tu tập), lấy chúng sanh làm đối tượng. Đây là đề mục chế định cho nên ý tưởng có một ngã, người, chúng sanh thuộc về thân kiến vẫn tồn tại. Cho nên kệ ngôn 10 hướng hành giả tiến xa hơn trong thiền quán, lấy tâm thiền làm căn bản để quán vào thực tại danh sắc là vô thường, khổ, vô ngã.

Diṭṭhiñca anupaggamma: Sau khi thoát ly tà kiến. Qua thiền quán hành giả loại bỏ ý niêm về một cái ngã thường hằng và diệt trừ tà kiến là thân kiến (chấp năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức là tự ngã), chứng dự lưu đạo.

Sīlavā dassanena sampanno: Có giới và thành tựu sự thấy.

Đây là thánh giới dự lưu, vì vị ấy đã trừ thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ, cho nên giới thuộc về giới cao thượng, không phải giới xao động của phàm phu.

Thành tựu sự thấy - Đây là đạo trí dự lưu thấy Niết bàn lần đầu tiên thoát khỏi tính phàm phu hoàn toàn.

Kāmesu vinaya gedhaṃ, na hi jātuggabbhaseyya punaretīti

Sau khi loại trừ tham trong các dục, vị ấy chắc chắn không còn tái sinh nữa.

Theo chú giải, đoạn này phải dịch là ‘Sau khi loại trừ tham trong các dục, vị ấy chắc chắn không sinh trở lại trong bào thai. Vị thánh dự lưu vẫn còn dính mắc trong các dục và còn sân. Vị thánh nhất lai giảm nhẹ dính mắc trong các dục và sân. Riêng bậc thánh bất lai đã diệt dục ái và sân hoàn toàn. Đoạn kệ này nói về vị thánh bất lai, đối với vị này sau khi mạng chung không còn sinh vào bào thai nữa, vị ấy sinh vào tịnh cư thiên và chứng A la hán nơi đó.

Giải thích trên theo chú giải là đúng theo nghĩa đen. Nhưng lại không ổn bởi vì cũng chính chú giải nêu ra 500 tỳ kheo thực hành theo kinh này không dừng lại ở bất lai, tất cả đều chứng A la hán.

Thiền sư Mahāsī Sayādaw cũng giải thích theo chú giải Kāmesu vinaya gedhaṃ, na hi jātuggabbhaseyya punaretīti là vị bất lai đã diệt dục ái và không sinh vào bào thai nữa, sau khi mạng chung vị ấy sinh vào tịnh cư thiên. Tuy nhiên ngài giải thích thêm như sau:

Kāmesu: liên quan với các dục, gedhaṃ: tham ái, vineyya: Sau khi loại trừ theo bốn thánh đạo, gabbhaseyyam: tái sinh vào kiếp sống mới trong bào thai, puna: lần nữa, na hi jātu eti: sẽ không xảy ra, tức là vị ấy sẽ đạt đến niết bàn hoàn toàn trong chính đời sống này, không còn tái sinh nữa. Giải thích này phù hợp với ý muốn của Đức Phật, mặc dù không tương đồng với cách dịch thông thường đứng trên quan điễm ngữ pháp…

Đoạn trích trên nói rõ hai câu cuối cùng nói về bậc A la hán, nhưng vì chưa thoát khỏi nghĩa đen nên người chấp nhận theo chú giải sẽ nói rằng ‘không sinh vào bào thai nữa thì làm sao là A la hán, vì còn nhiều cách sinh khác’.

Đây là câu nói rõ ràng của vị A la hán Raṭṭhapāla

Upeti gabbhañca parañca lokaṃ, saṃsāramāpajja paramparāya;

Tassappapañño abhisaddahanto, upeti gabbhañca parañca lokaṃ.

Nhập thai, sanh đời khác,

Luân hồi, tiếp tục sanh,

Kẻ ít trí, tin tưởng,

Nhập thai, sanh đời khác.

(Trưởng lãoTăng kệ câu 785, HT. Thích Minh Châu dịch).

Upeti gabbhañca parañca lokaṃ: Sinh vào bào thai và thế giới khác. Câu này quá rõ, không ai bác bỏ được.

Theo sát tạng kinh, chúng ta sẽ thấy nếu hiểu theo chú giải sẽ làm cho đoạn này mất đi ý nghĩa thâm thúy. Kāmesu vinaya gedhaṃ: Sau khi loại trừ tham trong các dục. Nhất tâm đối nghịch với dục tham và tâm định chế ngự dục tham. Tâm từ đến mức độ vô lượng không còn phân chia ranh giới giữa ta và chúng sanh. Tình thương của tâm từ đối nghịch với tình thương của dục tham, hoặc còn gọi là dục ái. Tuy nhiên, khi tâm định của tâm từ chưa có quán thì dục tham tùy miên vẫn còn. Khi định có quán hành giả biết định của tâm từ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành nên thuộc về pháp vô thường. Quán như vậy vị ấy không chấp vào tâm thiền và hướng đến đoạn trừ tất cả lậu hoặc. Khi quán nương vào tâm định của tâm từ đến mức độ toàn hảo ‘na hi jātuggabbhaseyya punaretīti’ (vị ấy chắc chắn không còn tái sinh nữa) thì câu Kāmesu vinaya gedhaṃ (sau khi loại trừ tham trong các dục). Câu này chỉ cho thánh định, không còn là phàm định nữa mà là thánh chánh định. Như Phật ngôn ‘Này các Tỷ kheo, thế nào là Thánh chánh định với các cận duyên và các tư trợ? Chính là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm. Này các Tỷ kheo, phàm có nhất tâm nào (ekaggatā) được tư trợ với bảy chi phần này, này các Tỷ kheo, như vậy gọi là Thánh chánh định cùng với các cận duyên và các tư trợ.

(Trung bộ kinh 117)

Định được trợ duyên bởi 7 chi phần của chánh đạo như thế đưa đến chánh trí và chánh giải thoát nên gọi là na hi jātuggabbhaseyya punaretīti (vị ấy chắc chắn không còn tái sinh nữa). Vị ấy là bậc vô lậu, A la hán ngay trong đời sống này. Một bậc A la hán không phải chỉ có chấm dứt dục ái mà sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh đều chấm dứt.

Xem thế, trong một câu phải xét theo ngữ cảnh, có nghĩa đen, nghĩa bóng để hiểu ý muốn nói gì. Câu tương tự trong kinh Pháp cú 325:

Middhī yadā hoti mahagghaso ca, niddāyitā samparivattasāyī;

Mahāvarāhova nivāpapuṭṭho, punappunaṃ gabbhamupeti mando

Người ưa ngủ, ăn lớn

Năm lăn lóc qua lại

Chẳng khác heo no bụng

Kẻ ngu nhập thai mãi.

(HT. Thích Minh Châu dịch)

Punappunaṃ gabbhamupeti mando

Kẻ ngu nhập thai mãi là theo nghĩa đen, theo nghĩa bóng là còn tái sinh, luân hồi.

Gs. Tịnh Minh dịch:

Kẻ ngu si ám độn,

Ham ăn ngủ như heo,

Bạ đâu nằm lăn đó,

Luân hồi mãi cuốn theo.

Theo nghĩa đen thì chỉ quy vào thai sinh, hiểu theo nghĩa bóng chỉ cho sự tái sinh luân hồi theo duyên nghiệp không lường trước được. Punappunaṃ gabbhamupeti mando, do đó phải hiểu theo nghĩa bóng mới nắm được ý nghĩa thâm thúy trong Phật ngôn.

Daw Mya Tin, dịch câu Pháp cú 325 từ bản Pāli Myanmar và tham khảo nhiều bản dịch tiếng Miến của các tiền bối, cũng dịch theo nghĩa bóng (mà không dịch thai sinh) như sau:

The stupid one who is lazy, gluttonous and drowsy, who just wallows like a well-fed pig, is subject to repeated rebirths.

------

Hoàn tất Mettasuttaṃ (Kinh Tâm từ) sáng 12/7/2021

Bài viết năm 2021 khác