Bực tức Tỳ kheo Giác Lộc

10/12/2021 - 08:11   281

Phần 1

Giải Thích Kinh ‘‘Trừ Khử Hiềm Hận’

Định nghĩa từ Pāli.

Āghāta là danh từ, HT. Thích Minh Châu dịch trong bài kinh là hiềm hận. Đại từ điển Hán Việt của Bửu Kế giải thích: Hiềm = ghét. Hận= giận. Hiềm hận là ghét và giận. Đại trưởng lão Tịnh Sự dịch là hiềm khích. ĐTĐ Hán Việt của Bửu Kế giải thích: .Hiềm = ghét bỏ. Khích = oán giận.

Trong Trung bộ kinh cho phản nghĩa của Āghāta là ānanda (sự hân hoan, hoan hỷ). Do vậy, sự không hân hoan, không hoan hỷ là Āghāta. Nếu không dùng từ Hán Việt, chúng ta dùng một từ thuần Việt đơn giản để dịch Āghāta. Đó là bực tức. Từ điển Thanh Nghị giải thích: Bực = khó chịu về điều gì. Bực tức = tức tối, không bằng lòng.

Để hiểu rõ hơn về từ Āghāta, chúng ta nên xem cách diễn tả về tâm sân trong Vi diệu pháp:

Domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ (tâm câu hữu với ưu, tương ưng với hận) – HT. Thích Minh Châu dịch.

Câu hữu với ưu, nghĩa là đồng sinh với thọ ưu. Tương ưng với hận, nghĩa là kết hợp với hận. Paṭighasampayuttaṃ (tương ưng với hận) đồng nghĩa với tương ưng sân (dosa), nghĩa là tâm này gọi là tâm sân vì đồng sinh thọ ưu và kết hợp với tâm sở sân.

Paṭigha là hận hoặc phẫn nộ, có nhiều cách dùng đặc biệt trong Kinh tạng và Vi diệu tạng. Paṭigha nghĩa đen là va chạm, chống đối, nói lên cách phản ứng, chống đối, kháng cự, hủy diệt đối tượng. Đối tượng không khả ái khiến cho có sự phản ứng, chống lại, gọi là paṭighanimitta, HT. Thích Minh Châu dịch là chướng ngại tướng, là những cảnh làm cho tâm sân phát sanh nên còn gọi là paṭigharammaṇa. Paṭigha bao gồm loại sân thô cho đến vi tế như sân tùy miên.

Trong chú giải Trường bộ kinh phân biệt dosa và paṭigha như sau: Dosa là dubbalakodha (sự tức giận yếu) và paṭigha là balavakodha (sự tức giận mạnh). Đây là nói về tác dụng yếu mạnh, tuy nhiên dosa là akusalamūla (căn bản bất thiện) vẫn là tác nhân truyền sức sống cho các loại khổ ưu như sầu, bi, khổ, ưu, não.

Như vậy, Āghāta (bực tức) là gì so với dosa và paṭigha? Thanh tịnh đạo (Visuddhimagga) có lời rằng āghātavatthupadaṭṭhāno, nghĩa là nguyên nhân gần của dosa là các nhân duyên làm phát sinh āghāta. Vatthu là chỗ y cứ, hoặc kāraṇa (nguyên nhân, nhân duyên). Theo Tăng chi bộ kinh có 9 nhân duyên làm phát sinh āghāta. Chỗ này HT. Thích Minh Châu dịch Āghāta là xung đột. Āghātavatthu, Hòa Thượng dịch là xung đột sự.

Này các Tỷ-kheo, có chín xung đột sự. Thế nào là chín?

"Vị ấy đã làm hại tôi", xung đột khởi lên. "Vị ấy đang làm hại tôi", xung đột khởi lên. "Vị ấy sẽ làm hại tôi", xung đột khởi lên.

"Vị ấy đã làm hại người tôi thương, tôi mến", xung đột khởi lên. "Vị ấy đang làm hại người tôi thương, tôi mến", xung đột khởi lên. "Vị ấy sẽ làm hại người tôi thương, tôi mến", xung đột khởi lên.

"Vị ấy đã làm lợi cho người tôi không thương, không mến", xung đột khởi lên. "Vị ấy đang làm lợi cho người tôi không thương, không mến, xung đột khởi lên." Vị ấy sẽ làm lợi cho người tôi không thương, không mến", xung đột khởi lên. (Tăng chi bộ kinh, 29, Xung đột sự)

Căn cứ vào kinh trên, nếu dung chứa những ý nghĩ bất bình như vậy sẽ tạo thành nhân duyên cho Āghāta (bực tức) phát sinh. Phản nghĩa của Āghāta là ānanda (hân hoan, hoan hỷ) đối nghịch với sân, ngoài ra Thanh tịnh đạo cũng có lời rằng ‘āghātavinayaraso, nghĩa là nhiệm vụ của vô sân là trừ khử bực tức’. Vô sân đồng nghĩa tâm từ, người tu tập tâm từ không thể vừa duy trì bực tức vừa duy trì tâm từ, để có tâm từ trước hết phải loại bỏ những ý nghĩ bực tức. Paṭigha có ngữ căn là han, tấn công, giết. Āghāta cũng có ngữ căn là han. Do đó, tính cách bạo động và tai hại tìm thấy trong hai từ ngữ. Āghāta (bực tức) lên đến cường độ có thể thành paṭigha, tức là kodha (sự tức giận) mạnh có khả năng tạo nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý. Hãy xem kodha mạnh được diễn tả trong Phật ngôn: ‘Ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, phẫn nộ, nhiều phật ý, bị nói đến một chút thời bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, và tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu được đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải xấu sắc'. (Trung bộ kinh 135).

Chút nọc độc của con rắn độc nhỏ có thể phát tán nhanh, sự bực tức nhỏ sẽ phát tán nhanh thành sự bùng nổ của tức giận, gây trở ngại cho việc phát triển tâm an tịnh và còn tạo ra nghiệp ác tai hại để lại hậu quả nhãn tiền và đời sau nữa. Cho nên phải trừ khử bực tức bằng cách trừ sân hận ngay từ khi mới phát ra nơi những tư tưởng bất bình khi còn là nội sân (dosantaro). Nếu để lan ra ngoài thì sẽ khó trừ và muốn trừ sẽ mất nhiều thời gian.
oooo

Phần 2

Giải Thích Kinh ‘‘Trừ Khử Hiềm Hận’

Có người thân hành không thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

Trong bài giải thích phần 1 nên nhớ cách dùng từ để giúp hiểu rõ hơn phần 2 này. Hiềm hận (āghāta) theo cách dùng thông dụng là bực tức. Xung đột sự (Āghātavatthu) theo cách dùng thông dụng dịch là nhân duyên phát sinh bực tức, hoặc chỗ y cứ, tức là nương vào đó, dựa vào đó mà bực tức sinh lên. Trong bài 1 nêu ra 9 nhân duyên như ‘Vị ấy đã làm hại tôi’ … Chính vì chứa chấp ý tưởng này nên bực tức phát sinh. Do đó những ý tưởng trong 9 trường hợp là nhân duyên hoặc chỗ y cứ cho bực tức.

Thân hành (kāyasamācāro)

Hành (samācāro) là cách cư xử, tư cách. Thân hành (kāyasamācāro) là cách cư xử biểu lộ nơi thân, tức là tư cách của người đó nhận thấy nơi thân. Khẩu hành (vacīsamācāro) là cách cư xử biểu lộ nơi lời nói, tức là tư cách của người đó nhận thấy nơi lời nói.

Không thanh tịnh (aparisuddha), bị ô nhiễm bởi tham, sân, si. Thân hành và khẩu hành không thanh tịnh còn gọi là thân nghiệp (kāyakamma) và khẩu nghiệp (vacīkamma) không thanh tịnh.

Có 7 nghiệp không thanh tịnh liên quan đến thân hành và khẩu hành, trong đó thân có 3 nghiệp, khẩu có 4 nghiệp.

Thân: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Khẩu: Nói dối, nói hai lưỡi, ác khẩu, nói lời vô ích.

Ý hành (manosamācāro) không thanh tịnh có 3. Tham, sân, tà kiến.

Chúng ta nhận thấy trong phần ý không có si. Vì sao? Bởi vì si là biến hành, có mặt trong tất cả tâm bất thiện, cho nên trong tâm tham có si trợ giúp. Trong tâm sân có si trợ giúp. Trong phần ý không có si vì tham, sân có năng lực tạo ra ý nghiệp cho tham, sân, tà kiến, còn si vì quá mê mờ nên không có năng lực tạo ra ý nghiệp cho tham, sân, tà kiến. Cho nên trong phần ý không có si.

Theo Vi diệu pháp tập yếu, 3 chi của thân (sát sanh, trộm cắp, tà dâm) và 4 chi của khẩu (Nói dối, nói hai lưỡi, ác khẩu, nói lời vô ích). Thì tham khiến cho thân có khả năng tạo nghiệp tà dâm. Sân có khả năng khiến cho thân tạo nghiệp sát sanh. Tham hoặc sân có khả năng khiến thân tạo nghiệp trộm cắp.

Sân khiến cho khẩu có khả năng tạo nghiệp ác khẩu. Tham hoặc sân có khả năng khiến cho khẩu tạo nghiệp nói dối, nói hai lưỡi, nói lời vô ích.

Còn si chỉ là nhân trợ giúp cho tham và sân.

Vi diệu pháp tập yếu phân tích như vậy để làm rõ vai trò của 3 nhân tham, sân, si. Tuy nhiên phải hiểu rằng cường độ của tham hoặc sân là do cường độ của si. Nếu quá si mê có thể khiến cho tâm tham, tâm sân tạo ra nghiệp ác nơi thân, khẩu mạnh trầm trọng hơn. Trong duyên khởi si gọi là vô minh và nếu không trừ được thì không hoàn toàn giải thoát luân hồi.

Chúng ta thấy vì trạo cử trong nhóm si phần thuộc biến hành nên có mặt trong 12 tâm bất thiện, nhưng trạo cử nơi đây là yếu, chỉ đồng sinh với các tâm sở khác. Nhưng trong tâm si tương ưng trạo cử, thì trạo cử nơi đây là yếu tố chính nên mạnh hơn.

Theo Trung bộ kinh tư tưởng liên quan tham, sân, si đều nguy hiểm cần phải loại trừ. Cũng chính Trung bộ kinh, Đức Phật giải thích tham, sân chi phối thân hành và khẩu hành của một người. Nhưng si cũng chi phối thân hành và khẩu hành của một người. Đây là những điểm quan trọng để chúng ta hiểu rõ về thân hành, khẩu hành không thanh tịnh vốn bắt nguồn từ tâm như Phật ngôn trong kinh pháp cú:

Tâm dẫn đầu các pháp.

Tâm là chủ, tạo tác.

Nếu nói hay hành động,

Với tâm niệm bất tịnh,

Khổ não liền theo sau,

Như xe theo bò vậy.

(Kinh pháp cú 1, GS. Tịnh Minh dịch)

------

Phần Cuối

Giải Thích Kinh ‘‘Trừ Khử Hiềm Hận’

Tăng chi bộ kinh

Có người thân hành không thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

01

‘Trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử’. Theo câu tiếng Việt có nghĩa là ‘Này các Hiền giả, bực tức cần phải được trừ khử đối với người có thân hành không thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh’. Khi tiếp xúc với người như vậy, nếu có bực tức thì chính mình phải trừ khử bực tức .

Người thân hành không thanh tịnh là có cách cư xử bất thiện nơi thân như sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Hoặc hành hung người khác, phá phách làng xóm, vứt rác bừa bãi …Bất cứ thân hành bất thiện, có hại, hoặc bất lịch sự nào đều tạo nên tư cách không đáng trọng và nghĩ đến sẽ phát sinh bực tức. Như dụ ngôn miếng vải quá dơ dùng chân trải tấm vải ra chớ không dám dùng tay để chọn miếng vải còn dùng được. Kinh đưa ra phương pháp trừ bực tức theo cách không tác ý thân hành không thanh tịnh và tác ý đến khẩu hành thanh tịnh của người đó. Tác ý (manasikāra) là danh từ rất đặc biệt trong kinh tạng và Vi diệu pháp tạng, nghĩa là hướng tâm, chú ý đến điều gì. Trước khi giảng một bài Pháp, Đức Phật thường nói, ‘Hãy khéo tác ý, Như Lai sẽ giảng’. Khéo tác ý là chú ý chăm chú, không xao lãng, nhờ vậy sẽ hiểu rõ ý nghĩa. Người khéo tác ý khi nghe Pháp sẽ có trí tuệ. Nếu tác ý đến thân hành không thanh tịnh và bực tức phát sinh, thì tác ý này gọi là phi như lý tác ý (ayoniso manasikāra). Nếu không tác ý đến thân hành không thanh tịnh và tác ý đến khẩu hành thanh tịnh của người đó, bực tức được trừ, tâm từ phát sinh. Tác ý này gọi là như lý tác ý (yoniso manasikāra). Tác ý như sau ‘Người này dù thân hành không thanh tịnh, nhưng có khẩu hành thanh tịnh như có 4 chi của khẩu hành thanh tịnh, hoặc nói năng lễ độ, dùng lời lẽ tao nhã với mọi người’. Tác ý đến mặt tốt của người này để không bực tức về thân hành bất tịnh gây cho mình hoặc người khác. Nhờ vậy tâm từ được phát triển. Bốn chi của khẩu hành thanh tịnh là không nói dối, không nói hai lưỡi, không ác khẩu, không nói lời vô ích.

Tăng chi bộ kinh

Có người khẩu hành không thanh tịnh, thân hành thanh tịnh, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

02

Khẩu hành không thanh tịnh là có cách cư xử bất thiện nơi lời nói như nói dối, nói hai lưỡi, ác khẩu, nói lời vô ích. Dụ ngôn hồ nước đầy bùn và cây lau, muốn uống nước phải ngụp lặn trong hồ nước ấy, lấy hai tay gạt ra ngoài bùn và lá cây, lấy bàn tay bụm nước lại rồi uống. Con người khẩu hành không thanh tịnh như vậy nếu tác ý đến sẽ phát sinh bực tức, do vậy không tác ý đến khẩu hành nào không thanh tịnh của người đó và tác ý đến thân hành thanh tịnh của người đó như tác ý đến những hạnh không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, hoặc hay giúp đỡ người khác, chăm sóc người bệnh, cứu giúp người hoạn nạn. Tác ý đến mặt tốt của người thì giữ được tâm an tịnh và tâm từ được phát triển. Có người miệng chưởi rủa, hăm dọa, nhưng không hề thực hiện ác khẩu đó để hại người qua thân hành. Nếu chấp vào lời rồi cho rằng kẻ như vậy là xấu hoàn toàn, thì sẽ không giúp cho người đó nhìn thấy tai hại của bất thiện và lợi ích của thiện. Có kẻ nhà quê không lõi đời trong chốn thành đô, ăn nói quê mùa, vô duyên. Nhưng thân hành xuất phát từ lòng thực thà, chân chất. Nếu nhìn thấy mặt tốt nơi hành vi của người này sẽ không có bực tức khi người đó phát ngôn gây khó chịu. Đôi khi người ăn nói thô lỗ nhưng thân hành thì rất tốt là do quả dư sót của tiền nghiệp. Nếu cố chấp vào lời nói thì sẽ không nhận thấy mặt tốt của người đó.

Tuy nhiên, thân hành thanh tịnh xuất phát từ thiện tâm, ngụy trang bằng lớp vỏ bên ngoai để che đậy tâm địa xấu thì đó là tư cách thấp hèn, không gọi là thanh tịnh. Khẩu hành thanh tịnh xuất phát từ thiện tâm, là tư cách cao thượng của người đó. Nếu ngụy trang bằng lớp vỏ ngọt ngào bên ngoài để che đậy tâm địa xấu thì không gọi là thanh tịnh. Phải sáng suốt để nhận ra đây là ngôn hành thanh tịnh, đây là ngôn hành không thanh tịnh. Lột được lớp ngụỵ trang để thấy con người thực là cách ngăn ngửa tai hại. Nếu đưa một người bạn ngụy trang vào gia đình thì tự mình phải chịu trách nhiệm khi kẻ đó gây ra tai họa. Nếu đưa một người ngụy trang vào đoàn thể thì tự mình chịu trách nhiệm khi kẻ đó gây ra tai họa. Một kẻ tâm địa xấu dù ngôn hành có đẹp cỡ nào cũng không tạo nên thanh tịnh. Khoác chiếc áo thiên thần vào con khỉ thì cũng không tạo nên một thiên thần. Người có tâm từ nội tâm trong sáng, không để cho kẻ xấu lợi dụng hoặc lừa dối. Mới đây một nhóm làm từ thiện giương lên nhiều lời nói hoa mỹ làm cho lay động lòng người. Nhưng rồi vỡ lở ra là nhóm dởm. Những nạn nhân bị lừa tỏ ra tức giận vì tin tưởng trong thời gian dài. Tức giận thì có ích lợi gì khi việc đã xảy ra rồi, vì thiếu kinh nghiệm nên mới bị lừa. Người cầm miếng vải bẩn thiểu không thể tưởng là miếng vải trong sạch, phải đem về giặt sạch mới dùng được. Cũng vậy, khi có tâm từ với kẻ thân hành không thanh tịnh hoặc khẩu hành không thanh tịnh thì không nên quên thực tế là kẻ đó có hạnh ô nhiễm, nếu quên thì việc tế độ người sẽ không thành công mà còn bị người tế độ lại, lúc đó sẽ rơi vào tình thế gần mực thì đen.

Tăng chi bộ kinh

Có người thân hành không thanh tịnh, khẩu hành không thanh tịnh, nhưng thỉnh thoảng tâm được mở rộng, tâm được tịnh tín, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

03

Thỉnh thoảng tâm được mở rộng, tâm được tịnh tín

(labhati ca kālena kālaṃ cetaso vivaraṃ cetaso pasādaṃ)

Nghĩa là có những lúc lắng lòng hướng đến tín tâm trong thiện pháp và tỏa ra bên ngoài nên gọi là tâm được mở rộng, tâm được tịnh tín.

Saddhā: tín tâm, lòng tin.

Saddhā là lòng tin căn bản và khi được tu tập sẽ trở thành tín căn (saddhā indriya), tín lực (saddhā bala).

Khi saddhā có trí kết hợp làm lắng đọng nghi ngờ và tâm được thanh tịnh thì gọi là tịnh tín (pasāda), nghĩa là lòng tin tỏa sáng ra bên ngoài qua sự trong sạch và hoan hỷ.

Tín của vị dự lưu gọi là Aveccapasāda (Tịnh tín không xao động). Nơi đây dùng Pasāda vì vị này biểu lộ tín rất rõ là không còn tin mù quáng vào người khác, nhưng đạt đến sự tự tin vào kinh nghiệm chứng pháp của chính mình.

Đối với hạng người thân hành và khẩu đều không thanh tịnh. Người này có thể phạm một trong 3 chi của thân nghiệp không thanh tịnh, hoặc là kẻ trộm cắp tinh vi được ngụy trang qua cái vẻ trang trọng như làm việc lợi hành, cứu giúp người. Người này có thể phạm một trong 4 chi của khẩu nghiệp, hoặc là kẻ lừa dối tinh vi qua những lời hoa mỹ về tình thương người. Biết người như vậy, nghĩ đến thân hành, khẩu hành như vậy thì không tránh khỏi bực tức. Chứa chấp bực tức là tự mình đưa thuốc độc vào tâm và nó sẽ lan tỏa thành sân hận, tức giận, thù ghét và bộc phát thành thân ác nghiệp, khẩu ác nghiệp. Cuối cùng đưa đến hại mình, đưa đến quả khổ cho mình mà thôi. Một khi tự hại, tự làm khổ thì tâm ô nhiễm đó sẽ hại người, làm khổ người. Đây là nguy hiểm của chứa chấp bực tức như uống thuốc độc.

Trường hợp 3, kinh văn đưa ra dụ ngôn chút ít nước trong dấu chân con bò, muốn uống phải nằm mộp xuống, hớp nhẹ nhàng chút nước trong còn lại đó. Cũng vậy, không nên tác ý đến thân hành không thanh tịnh và khẩu hành không thanh tịnh. Hãy nên tác ý đến người đó thỉnh thoảng tâm được mở rộng, tâm được tịnh tín. Nghĩa là ý hành (manosamācāro) của người này thỉnh thoảng có lòng tin nhân quả, kính trọng chùa chiền, cung kính chư Tăng, nghe Pháp chăm chú. Khi tác ý đến mặt tốt là ý hành của người này thì bực tức không phát sinh đối với thân hành và khẩu hành không thanh tịnh và tâm từ vẫn tiếp tục được phát triển.

Tăng chi bộ kinh

Có người thân hành không thanh tịnh, khẩu hành không thanh tịnh, và thỉnh thoảng không được tâm rộng mở, không được tâm tịnh tín, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

4

Hạng người thứ tư thân hành, khẩu hành, ý hành đều không thanh tịnh. Hạng này rất đáng ghét, rất dễ làm phát sinh bực tức và rất khó làm phát triển tâm từ. Không tìm thấy mặt tốt nào nơi người này để mình tác ý. Vậy thì dựa vào đâu ? Kinh văn đưa ra dụ ngôn người bệnh trầm trọng lê bước nặng nhọc trên đường về làng xa, không thức ăn, không thuốc men, không người chăm sóc, bơ vơ trên đường. Tình cảnh quả thực khốn khổ. Có người thấy vậy tìm cách giúp đỡ và đưa về đến làng vì tâm từ, tâm bi muốn người kia thoát khổ, thoát chết. Cũng vậy, đối với người thân, khẩu, ý đều không thanh tịnh nên dùng tâm từ, tâm bi như đối với người bệnh khốn khổ trong dụ ngôn. Mong người lầm lạc này tỉnh ngộ từ bỏ con đường ác, hướng về con đường lành, vì không mong kẻ kia ‘Sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục’.

Theo cách phát tâm từ bi đến kẻ chỉ có mặt xấu như đối với người bệnh khốn khổ sắp chết thì bực tức không phát sinh và dù tâm từ rất khó phát triển, nhưng khi tâm rộng mở, trong sáng, không muốn chứa chấp bực tức, trong trường hợp này vẫn duy trì được tâm từ và là dịp để phát triển tâm từ cao hơn nữa.

Có tâm từ bi đối với người như vậy để khơi dậy những đức tính tiềm ẩn. Điều này Đức Phật đã áp dụng trong nhiều trường hợp như tế độ Aṅgulimāla, chuyển hóa kẻ sát nhân thành bậc thánh thiện A la hán. Đức Phật và các bậc Thánh trí tuệ nhìn thấu căn tánh của con người và chúng sanh, nhờ vậy moi lên những viên ngọc từ trong lớp bùn nhơ để tỏa sáng trong cuộc đời. Điều khó làm, phải là những bậc tròn đủ bi trí.

Tăng chi bộ kinh

Có người thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, và thỉnh thoảng tâm được rộng mở, tâm được tịnh tín, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

5

Hạng người này thân hành, khẩu hành, ý hành đều thanh tịnh, giao tiếp với người này thực dễ chịu như dụ ngôn hồ sen nước trong sạch, dịu mát, khi nóng nực muốn vào tắm và uống nước trong hồ đó thực dễ dàng và thoải mái. Tiếp xúc người như vậy rất dễ phát triển tâm từ vì mình đã dành thiện cảm cho người đó rồi. Thế nhưng đối với người thanh tịnh như vậy, bực tức vẫn phát sinh là vì ganh tỵ với người đức hạnh hơn mình. Trong trường hợp này, nên tác ý đến thân hành thanh tịnh, nên tác ý đến khẩu hành thanh tịnh và nên tác ý đến điều gì liên quan đến thỉnh thoảng tâm được rộng mở, tâm được tịnh tín của người đó. Sự tác ý này trừ bực tức và giúp tâm từ phát triển nên gọi là như lý tác ý.

Một người thanh tịnh bao quát như vậy, nếu thân cận sẽ đem lại tâm tịnh tín, nghĩa là tín tâm lan tỏa ra ngoài qua sự an tịnh và hoan hỷ, y như giải trừ nóng bức khi trầm mình trong nước mát hồ sen.

------

*Xem bản dịch kinh Trừ Khử Hiềm Hận của Hoà Thượng Thích Minh Châu để so sánh.

Bài viết năm 2021 khác