Hành trình giải thoát Tỳ kheo Giác Lộc
12/12/2021 - 20:38 381
HÀNH TRÌNH GIẢI THOÁT
-------
Trích kinh Caṅki (Trung bộ kinh 95. HT. Thích Minh Châu dịch)
1 Lòng tin
2 Đi đến gần
3 Thân cận giao thiệp
4 Lóng tai
5 Nghe Pháp
6 Thọ trì Pháp
7 Tìm hiểu ý nghĩa
8 Hoan hỷ chấp nhận Pháp
9 Ước muốn
10 Cố gắng
11 Cân nhắc
12 Tinh cần.
---------
Mỗi chuyến tham quan, mỗi cuộc hành hương phải bỏ ra một số tiền mua vé. Cuộc hành trình qua 12 chặng này không có loại tiền nào trên thế giới mua được cái vé. Giá của chuyến đi tính bằng ‘Sự quyết tâm hướng về chân lý’.
Tìm hiểu các chặng đường
1/ Lòng tin (saddhā)
Lòng tin ở đây căn cứ vào sự quan sát, hiểu biết nhân vật đó có đời sống an tịnh thân, khẩu. ý, không bị chi phối bởi tham, sân, si. Đặt lòng tin vào ai là để học chánh đạo, do đó không thể tin mù quáng được.
2/ Đi đến gần (upasaṅkamanaṃ)
Khi có lòng tin thì có việc đi đến gần, thăm viếng
3/ Thân cận giao thiệp (payirupāsanā)
Nghĩa là phải có việc đi đến gần, thăm viếng nhiều lần.
4/ Lóng tai (sotāvadhānaṃ)
Là sự chăm chú lắng nghe. Lóng tai như vậy là điều kiện cần thiết của sự học hỏi. Trong điều kiện lóng tai có đàm luận và hỏi. Một người không có trí tuệ do đến gần những bậc thiện trí không có hỏi Pháp. Trái lại người có trí tuệ do đến gần những bậc thiện trí có hỏi Pháp. Sự lóng tai không phải chỉ nghe bằng lỗ tai, nghe xong rồi quên hết. Đây là cách nghe có yếu tố tâm lý là chú ý, không lơ đãng, không bỏ sót điều đã nghe. Người có lóng tai tạo cho chính mình nhân duyên (upanisa) phát sinh trí tuệ là trí văn do nghe được Pháp cao quý và trí tu do phát triển pháp hành và chứng ngộ Pháp.
5/ Nghe Pháp (dhammassavanaṃ)
Lóng tai là điều kiện cần thiết trước khi nghe Phật Pháp.
Việc nghe là nghe lời giảng, bao gồm việc đọc kinh sách. Quý vị đọc các bài trên facebook này cũng là một cách nghe Pháp.
‘Này các Tỷ-kheo, nghe pháp có năm lợi ích này. Thế nào là năm?
Ðược nghe điều chưa nghe, làm cho trong sạch điều được nghe, đoạn trừ nghi, làm cho tri kiến chánh trực, làm cho tâm tịnh tín’.
(Tăng chi bộ kinh V, 202. . HT. Thích Minh Châu dịch)
Tìm hiểu các chặng giữa
6/ Thọ trì Pháp (dhammadhāraṇā)
Là sự ghi nhớ Pháp đã nghe.
Có lóng tai (chăm chú lắng nghe) khi nghe Pháp thì sẽ ghi nhớ, nhập tâm điều đã nghe.
7/ Tìm hiểu ý nghĩa (atthūpaparikkhā)
Là sự xem xét, suy xét ý nghĩa.. Chặng thứ 7 này là cách làm cho thông suốt điều đã nhớ. Nếu chỉ nhớ theo kiểu học thuộc lòng nhưng không có nắm được ý nghĩa thì chỉ nhớ theo ngôn từ nhưng không hiểu nghĩa. Nhớ như vậy, dù nhồi nhét vô số kinh điển cũng vô ích. Tăng chi bộ kinh nói về việc nghe phát sinh trí tuệ rộng lớn là có sự tác ý đến đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối. Tác ý (manasikāra) ở đây nghĩa là khéo chú ý đến. Trong sự khéo chú ý bao hàm việc nhớ ngôn từ và hiểu nghĩa. Cách nghe với ba giai đoạn như vậy sẽ giúp cho người nghe ghi nhớ Pháp và nghĩa trong tâm. Nếu ngồi nghe không nhớ gì cả, hoặc có nhớ nhưng lúc đứng dậy là quên hết thì không phải là cách nghe Pháp đúng. Lúc nghe có tác ý đầy đủ và lúc đứng dậy vẫn có tác ý đến những điều đã nghe, thì đây là cách nghe Pháp đúng sẽ ghi nhớ được Pháp và hiểu nghĩa rõ ràng. Người nhớ Pháp như vậy sẽ thực hành đúng Pháp. Có thực hành đúng Pháp sẽ thoát khổ.
8/ Hoan hỷ chấp nhận Pháp (dhammanijjhānakkhanti)
Sau khi đã hiểu ý nghĩa, có sự hoan hỷ chấp nhận Pháp đó. Việc học đạo đòi hỏi phải cẩn trọng. Chưa hiểu đã vội vã chấp nhận thì nền móng của việc hiểu Pháp và thực hành Pháp không vững chắc.
9/ Ước muốn (chando)
Người đã có hoan hỷ trong Pháp thì ước muốn phát sinh. Ước muốn không phải là tham vọng mà là nguyện vọng chân chánh. Ước muốn thực hành tâm từ, thực hành tứ niệm xứ là Pháp dục (dhammachando). Muốn đến vương quốc Chánh Pháp phải đi qua chặng đường này.
Tìm hiểu những chặng cuối
10/ Cố gắng (ussāho)
Ussāho đối nghịch kusitā (lười biếng). Do vậy có thể dịch là sự siêng năng, nỗ lực. Ussāho nghĩa đen là chịu đựng, gánh vác. Chặng thứ 10 này không còn ở pháp học nữa mà bắt đầu bước vào pháp hành. Khi hành thiền chỉ, quán sự lười biếng có thể phát sinh do lạnh, nóng, đói, khát, khó chịu, chán nản. Ussāho, nỗ lực vượt qua mọi trở ngại để trừ bệnh lười biếng. Ban đầu có thể còn lười biếng do chưa tiến bộ trong đề mục, một giờ cảm thấy quá dài vì không an lạc, cho đến khi nỗ lực đến mức độ khắn khít với đề mục, một giờ trôi qua rất nhanh vì an trú trong an lạc. Lúc đó lười biếng không còn nữa, dù ban đêm làm việc rất khuya, vẫn nỗ lực ngồi thiền như thường.
11/ Cân nhắc (tulanā)
Tulanā là sự cân bằng, đo lường. Trong Chú giải Trung bộ kinh cho rằng Tulanā có nghĩa ‘quán sát các pháp là vô thường v.v…’ Nhưng vị học giả Pāli, người Tích Lan, Mahāthera Ñāṇananda không đồng ý với chú giải, ngài giải thích Tulanā là sự cân bằng ngũ căn.
Căn (indriya) nghĩa là chức năng, khả năng, quan năng. Những quan năng thuộc về thân như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Ngũ căn là 5 quan năng thuộc về tinh thần, gồm có tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Indriya, có cách đọc khác là inda. Nghĩa là vua, chúa, người có vương quyền, uy quyền. Devānamindo, nghĩa là thiên chủ, vua của chư thiên. Đó là tên gọi của Sakko (vua trời Đế Thích). Đại trưởng lão Tịnh sự dịch indriya là quyền, để nói lên cái quyền cai quản, kiểm soát như ông vua có quyền trong vương quốc. Trong năm căn hoặc quyền có khả năng cai quản, kiểm soát như tín quyền sẽ cai quản các pháp đồng sinh hướng về công việc lòng tin…
Tại sao phải cân bằng ngũ căn, tức là làm cho đều hòa ngũ căn? Trong thiền chỉ, cân bằng ngũ căn giúp cho định kiên cố. Trong thiền quán, cân bằng ngũ căn giúp cho tuệ kiên cố. Trong ngũ căn, tuệ căn là tối thượng vì có khả năng vẹt tan bóng tối của vô minh, khi tuệ căn đã kiên cố trở thành giác chi đưa đến đạo quả siêu thế. Tín nếu lấn át tuệ thì sự hiểu biết chín chắn sẽ yếu, lúc đó sinh tin tưởng mù quáng. Nếu tuệ lấn át tín sẽ sinh nghi ngờ và hoang mang. Như trường hợp dùng trí suy luận, phân tích về pháp hành đang chứng nhiệm, hiểu không thấu nên sinh hoài nghi về pháp hành. Do đó, tín và tuệ phải cân bằng. Nếu tấn lấn át định sẽ sinh phóng tâm, loạn động. Như trường hợp được pháp an lạc rồi tinh tấn kéo dài khiến buông trôi định. Nếu định lấn át tấn sẽ sinh hôn trầm thụy miên. Như trường hợp định kéo dài, không cần cố gắng cũng giữ tâm an tịnh dễ dàng nên buông trôi tinh tấn và hôn trầm thụy miên xen vào. Sự lấn át chỉ tạo ra tà tư duy và không gọi là ngũ căn, chỉ khi nào cân bằng được thì mới có đầy đủ uy quyền nên gọi là ngũ căn và khi ngũ căn được phát triển, đạt đến mức độ không xao động bởi pháp đối nghịch như năm triền cái thì được gọi là ngũ lực. Năm triền cái là tham ngũ dục, sân, hôn thụy, trạo hối, hoài nghi. Sự mất cân bằng tạo ra tín mù quáng, hoài nghi, phóng tâm, loạn động, hôn trầm thụy miên. Chúng sẽ được loại bỏ nhờ niệm căn. Niệm hoặc tỉnh thức là yếu tố điều chỉnh lại cho cân bằng mỗi khi có sự lấn át giữa tín và tuệ, giữa tấn và định. Khi ngũ căn được cân bằng thì tâm sẽ thanh tịnh. Phật ngôn trongTương ưng bô kinh dạy rằng: ‘Năm triền cái thức thì ngũ căn ngủ. Nhưng khi ngũ căn thức thì năm triền cái ngủ’. Cái thức dậy của năm triền cái sinh phiền não. Cái thức dậy của ngũ căn sinh thanh tịnh, giải thoát. Chính vì vậy việc cân bằng ngũ căn rất thiết yếu cho mỗi hành giả.
12/ Tinh cần (padhānaṃ)
Ở chặng 10 có Ussāho, nghĩa là sự siêng năng, nỗ lực. Nơi đây Padhānaṃ, tinh cần. Cả hai từ khác nhau như thế nào? Ussāho là tinh tấn ở giai đoạn hành trì trước khi ngũ căn được cân bằng. Padhāna là tinh tấn ở giai đoạn sau khi ngũ căn được cân bằng trong chỉ cũng như trong quán. Padhāna được tìm thấy trong Tứ chánh cần (sammappadhānā). Do vậy, tinh cần ở đây là chánh cần, là tinh tấn giác chi (vīriyasambojjhaṅga) có khả năng tiến vào đạo quả siêu thế.
Cuộc hành trình qua 12 chặng cho kết quả là đến được vương quốc chánh pháp với tên gọi là Saccānuppatti, nghĩa là thực chứng chân lý (ám chỉ sự chứng ngộ quả A la hán).
Khi vào vương quốc Chánh Pháp cái gì cũng lạ. Một cổng chào hiện ra, nhưng không thấy chân từ dưới mặt đất, tự nhiên hiển lộ trong không gian đề hàng chữ lớn ‘Yo dhammaṃ passati, so maṃ passati. Yo maṃ passati, so dhammaṃ passati.
Ai thấy Pháp, người đó thấy Phật. Ai thấy Phật, người đó thấy Pháp.
Bài viết năm 2021 khác
- Kinh từ bi Tỳ kheo Giác Lộc
- Thơ con cóc Tỳ kheo Giác Lộc
- Tự lợi lợi tha Tỳ kheo Giác Lộc
- Ba tăng thượng Tỳ kheo Giác Lộc
- Thế giới muôn màu Tỳ kheo Giác Lộc
- Kệ nhân duyên Tỳ kheo Giác Lộc
- Vĩ đại Tỳ kheo Giác Lộc
- Về quê mẹ Tỳ kheo Giác Lộc
- Bực tức Tỳ kheo Giác Lộc
- Thiên sứ Tỳ kheo Giác Lộc
- Hai thiên sứ Tỳ kheo Giác Lộc
- Dòng sông Tỳ kheo Giác Lộc
- Điện thoại Tỳ kheo Giác Lộc
- Chuột sa hũ nếp Tỳ kheo Giác Lộc
- Biết không Tỳ kheo Giác Lộc
- Bệnh ảo tưởng
- Vô duyên Tỳ kheo Giác Lộc
- Thực điên Tỳ kheo Giác Lộc
- Phật hiện Tỳ kheo Giác Lộc
- Người hâm mộ Tỳ kheo Giác Lộc
- Vesak Tỳ kheo Giác Lộc.
- Mơ ngủ mơ thức Tỳ kheo Giác Lộc
- Kết bạn Tỳ kheo Giác Lộc.
- Điều phục tâm Tỳ kheo Giác Lộc.
- Cái đồng hồ Tỳ kheo Giác Lộc
- Chữ cần biết Tỳ kheo Giác Lộc
- Bệnh quên Tỳ kheo Giác Lộc
- Ai giúp giúp ai Tỳ kheo Giác Lộc