Điều phục tâm Tỳ kheo Giác Lộc.

07/12/2021 - 23:20   331

ĐIỀU PHỤC TÂM

(Cần bao lâu để điều phục tâm và theo pháp môn nào hiệu quả nhất?)

Trong bộ Luận ngữ, Khổng Tử là giáo chủ Nho giáo nói ‘Thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ’

(Bảy mươi tuổi thì theo ý muốn của mình nhưng không ra ngoài khuôn phép đạo lý)

Đây là lời chân thực của một giáo chủ. Đến 70 tuổi mới đến chỗ đó, mà Khổng Phu Tử chỉ thọ đến 73 tuổi. Nhà Hán học tiền bối Phan Bội Châu giải thích ‘Đến năm 70 tuổi thời tiến lên một địa vị rất thông thường và rất tự nhiên, toan nói điều gì, toan làm việc gì, chỉ là chiều theo vị chủ tể ở trong lòng mình, nó muốn sao thời vậy, không bao giờ vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lý'.

Hãy tìm về Phật Pháp để hiểu cách điều phục tâm.

Ngày xưa có một vị vua thích tìm hiểu Phật Pháp, ông không hài lòng với bất cứ bậc đa văn kinh điển nào. Điều vị vua này muốn biết là có pháp môn nào nhanh nhất, hiệu quả nhất, thâm sâu nhất?. Một hôm nghe nói có một người từ bỏ tất cả công danh, sự nghiệp rực rỡ để sống đời xuất gia nơi chốn thâm sơn và nhiều người tin đó là một bậc A la hán. Được tin, nhà vua rất phấn khởi, lặn lội vào rừng để gặp vị chân sư. Khi hội kiến, được hỏi ‘Vì cớ gì một bậc vương giả lại tìm đến đây?’. Vị vua đáp ‘Xin ngài chỉ cho pháp môn nào nhanh nhất, hiệu quả nhất, thâm sâu nhất’.

Vậy thì hãy nghe giáo pháp thâm sâu nhất ‘ Không làm những điều ác, làm những việc lành, giữ tâm thanh tịnh’. Nhà vua vô cùng thất vọng, nói rằng ‘Có gì thâm sâu đâu, đứa bé 7 tuổi cũng học thuộc lòng được'. Vị chân sư nói ‘Đúng như vậy, đứa bé 7 tuổi có thể thuộc lòng câu nói này, nhưng người 70 tuổi chưa chắc làm được’.

Người học Đạo nên tránh bỏ gốc tìm ngọn như vị vua này, không nên mãi đi tìm cái gì cao siêu không thực tế mà bỏ qua những pháp môn cốt lõi do chính Đức Phật dạy và tuyên bố nhổ lên mũi tên khổ uẩn.

***

ĐIỀU PHỤC TÂM (2)

Người biết lái xe thì chiếc xe có ích, người không biết lái xe thì chiếc xe sẽ có hại, có thể đưa người điều khiển sai vào chỗ chết. Cũng vậy tâm có ích hoặc có hại do người biết điều phục hay không ?

Kết quả quá chậm hoặc không thấy kết quả gì hết là do thực hành sai hoặc không có áp dụng một pháp môn nào cả.

Kinh Đình chỉ tư duy (Tức là kinh An trú tầm), trung bộ kinh 20 là pháp môn do chính Đức Phật tuyên bố ‘Vị ấy có thể tác ý đến tầm nào vị ấy muốn, có thể không tác ý đến tầm nào vị ấy không muốn; vị ấy đã đoạn trừ khát ái, đã giải thoát các kiết sử, khéo chinh phục kiêu mạn, đã chấm dứt khổ đau’.

Đầu tiên phải có một pháp môn chỉ hoặc quán. Trong khi thực hành pháp môn nếu có tư tưởng bất thiên khởi lên liên quan với tham, sân, si, lúc đó áp dụng một trong năm cách loại trừ tư tưỡng bất thiện. Như vậy, kinh này giải thích vì sao việc thực hành đem lại kết quả như ý, đó là phải có pháp môn tu tập và phải có pháp môn hỗ trợ và kinh Đình chỉ tư duy là pháp môn hỗ trợ để loại trử tư tưởng bất thiện và đem lại nội tâm an tịnh , nhất tâm, định tĩnh.

Mở đầu bài kinh Đức Phật dạy ‘Chư Tỷ kheo, Tỷ kheo muốn thực tu tăng thượng tâm cần phải thường thường tác ý năm tướng. Thế nào là năm?...’

- Theo chú giải Trung bộ và phụ chú giải, tăng thượng tâm: là tám thiền chứng của thiền chỉ làm căn bản cho quán. Cách giải thích thứ hai là tâm tương ưng với thiền quán là tăng thượng tâm.

- Tác ý: hướng tâm vào, chú ý đến

- Năm tướng: nimitta, ấn tượng trong tâm trí, chú giải gọi là năm phương cách thực tiễn, năm nhân duyên hợp lý.

- Chư Tỷ kheo: Đức Phật giảng kinh này cho chư tỳ kheo. Theo chú giải kinh niệm xứ, bất cứ ai thực hành pháp đều bao hàm trong từ ngữ này. Đây là nghĩa rộng.

-Thường thường tác ý năm tướng:

Kālena kālaṃ: không phải là thường thường, dịch chính xác là thỉnh thoảng. Các dịch giả danh tiếng dịch từ Pāli sang tiếng Anh đều dịch là from time to time, nghĩa là thỉnh thoảng. Trong Tăng chi và Tương ưng, Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch Kālena kālaṃ là thỉnh thoảng.

Cần phải thỉnh thoảng tác ý năm tướng, bởi vì công việc thường xuyên là an trú trong pháp môn chính là đề mục đã chọn, chỉ khi nào phiền não xen vào mới đem pháp môn hỗ trợ ra áp dụng, cho nên gọi là thỉnh thoảng.

Đây là tóm lược năm cách hành trì trong kinh Đình chỉ tư duy.

5 CÁCH LOẠI TRỪ TƯ TƯỞNG BẤT THIỆN

1- Chú ý đến đối tượng thiện;

2-Suy xét về tác hại của tư tưởng bất thiện, nó là xấu, đem lại quả xấu không nên dung chứa;

3-Không nhớ đến, không chú ý đến tư tưởng bất thiện đó nữa;

4-Tìm ra cội nguồn của tư tưởng bất thiện, vì duyên cớ nào mà có tư tưởng bất thiện này;

5-Bốn phương pháp trên không hiệu quả thì nghiến răng lại, dán chặt lưỡi lên nóc họng, dùng sức mạnh của tâm đẩy lùi tư tưởng bất thiện.

Trong năm cách loại trừ tư tưởng bất thiện, việc tận dụng tối đa tư tưởng thiện được khuyến khích để giúp cho nội tâm an tịnh và dễ dàng đạt được định. Nhưng trong thiền quán sử dụng tư tưởng là chế định và ý muốn kiểm soát là có ái, có thủ, ý tưởng đó có ngã chấp xen vào. Trong thiền quán tham, sân, si là pháp chân đế, khi chúng khởi lên chỉ cần quán sự sinh diệt chớp nhoáng, xả ly, không chấp thủ, không bị kẹt trong ái - thích và không thích. Cần phải thông suốt, không nên lẫn lộn ở chỗ này. Tham, sân, si biểu hiện qua 5 triền cái. Phương pháp chỉ vì có ái, thủ trong pháp nên chỉ đè nén các triền cái. Phương pháp quán thấy rõ các pháp trong nguyên thể, thấy các pháp như thực, có sinh có diệt, thuộc vô thường, khổ , vô ngã, với tuệ quán thấy vậy nên có khả năng đi đến Thánh đạo, đoạn trừ các triền cái.

Tuy nhiên chỉ không gây trở ngại cho quán, đó là một pháp môn tu tập cần thiết. Phát tâm bố thí là thiện, sử dụng tư tưởng thiện để loại trừ tư tưởng bất thiện là thiện, thiền tâm là thiện. Trong khi sử dụng tư tưởng kiểm soát tâm bất thiện nơi sáu căn môn sẽ trợ giúp cho chánh niệm, trong khi cố gắng loại trừ tư tưởng bất thiện sẽ trợ giúp cho chánh tinh tấn.

Người duy trì tư tưởng bất thiện thành thói quen thì tâm ô nhiễm như cái lư đồng lâu ngày không lau chùi. Lúc đó sẽ không đè nén được năm triền cái, nói gì đến việc đoạn trừ triền cái. Cho nên phải tùy tâm lực của mình mà áp dụng pháp môn, không nên từ tiểu học nhảy lên đại học, trèo cao thế nào cũng ngã đau, nghĩa là chỉ không có và quán càng không có hơn nữa.

ooooo

ĐIỀU PHỤC TÂM (3)

Chỉ và quán sẽ không đối nghịch nếu hướng về ly tham, xả ly các phiền não. Ví như món ăn cho cơ thể, một món dù bổ dưỡng nếu dùng thường một món sẽ dư thừa chỗ này, thiếu hụt chỗ kia và sinh bệnh. Áp dụng các pháp đưa đến giải thoát cũng phải uyển chuyển vì cũng như thân, tâm cần thức ăn hoặc duyên thích hợp mới tăng trưởng. Phật ngôn trong Tăng chi bộ kinh ‘Tỷ kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các Tỷ kheo, nếu một chiều tác ý tướng định, thời có sự kiện tâm vị ấy đi đến thụ động. Tỷ kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các Tỷ kheo, nếu một chiều tác ý tướng tinh cần, thời có sự kiện tâm vị ấy đi đến trạo cử. Tỷ-kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các Tỷ kheo, nếu một chiều tác ý tướng xả, thời có sự kiện tâm vị ấy không chơn chánh định tĩnh để đoạn diệt các lậu hoặc. Nhưng nếu Tỷ-kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, này các Tỷ kheo, nếu thỉnh thoảng tác ý tướng định, thỉnh thoảng tác ý tướng tinh cần, thỉnh thoảng tác ý tướng xả, tâm vị ấy trở thành nhu nhuyến, kham nhậm, chói sáng, không bể vụn, chơn chánh định tĩnh để đoạn tận các lậu hoặc’.

Pháp trở ngại cho giác ngộ là 5 triền cái, pháp đưa đến giác ngộ là thất giác chi. Muốn thành tựu thất giác chi, phải thực hành tứ niệm xứ, muốn thành tựu tứ niệm xứ phải có ba thiện hành ( tức là 3 nghiệp thanh tịnh), muốn thành tựu ba thiện hành phải thu thúc lục căn.

Thu thúc lục căn và 3 thiện hành cần đến sự hỗ trợ của chỉ và quán. Muốn thân, khẩu, ý thanh tịnh và các căn môn không bị phiền não xâm nhập thì việc áp dụng tư tưởng lành là điều rất cần thiết cho người trí tuệ trung bình. Khi tam nghiệp và lục căn thanh tịnh thì từ trí tuệ trung bình sẽ thay bằng trí tuệ cao thượng hơn của quán.

Kết luận kinh đình chỉ tư duy, Đức Phật dạy: ‘Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã an trú trong đạo tầm pháp môn.Vị ấy có thể tác ý đến tầm nào vị ấy muốn, có thể không tác ý đến tầm nào vị ấy không muốn; vị ấy đã đoạn trừ khát ái, đã giải thoát các kiết sử, khéo chinh phục kiêu mạn, đã chấm dứt khổ đau’.

Chỉ cần ‘có thể tác ý đến tầm nào vị ấy muốn, có thể không tác ý đến tầm nào vị ấy không muốn’ là đại tiến bộ rồi. Tầm tức là tư tưởng, có mấy ai chỉ chú ý (tác ý) một loại tâm thiện suốt ngày và không hề cho phép loại tâm bất thiện nào sinh lên không ? Điều ngự được tâm thì an tịnh, giải thoát dù không mong cầu vẫn cho quả.

------

ĐIỀU PHỤC TÂM (4)

Pháp môn này do một vị sa di đã chứng quả A la hán dạy cho vị pháp sư đa văn bác học về kinh điển. Vị Pháp sư này tên là poṭṭhila, nhưng Đức Phật gọi là Tucchapoṭṭhila. Tuccha nghĩa là trống rỗng. Vị này nghe Đức Phật gọi như vậy, nghiệm ra rằng kiến thức bác học của mình chưa là cái gì cả và quyết tâm vào rừng học pháp hành với các vị A la hán, cuối cùng phải chấp nhận học với vị sa di bảy tuổi và thực hành theo, chứng quả A la hán.

Trong rừng có một gò mối có sáu cái lỗ. Một con kỳ đà đi vào bên trong theo một cái lỗ. Muốn bắt con kỳ đà phải bít năm cái lỗ và chừa cái lỗ thứ sáu. Cũng vậy trong sáu môn, hãy đóng 5 môn và chú niệm vào ý môn. (theo chú giải Pháp cú 282)

-----

Đóng năm cửa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và chú niệm vào cửa ý. Ý nghĩa là khi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân tiếp xúc cảnh thì chỉ cần chú niệm (ghi nhận) ở ý. Ví như ngồi đợi con kỳ đà ở một cái lỗ mà thôi. Khi có chú niệm ở ý thì 5 môn đó thanh tịnh, nếu không có chú niệm thì 5 môn sẽ xao động theo ngoại cảnh và nội tâm không an tịnh.

Tại sao không chú niệm ở nhãn môn, nhĩ môn … mà lại chú niệm ở ý môn, sự việc xảy ra chỗ này, lại giải quyết chỗ khác? Ý nghĩa nàyPhật ngôn giải thích (S.v,217) ‘Có năm căn này, thưa Tôn giả Gotama, đối cảnh khác nhau (nànavisayàni), hành cảnh khác nhau (nànà - gocaràni), chúng không dung nạp (paccanubhoniti) hành cảnh đối cảnh của nhau. Thế nào là năm? Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn. Thưa Tôn giả Goama, năm căn này, đối cảnh khác nhau, hành cảnh khác nhau, chúng không dung nạp hành cảnh đối cảnh của nhau, thời cái gì làm chỗ quy tựa cho chúng? Và cái gì dung nạp hành cảnh đối cảnh của chúng?

-- Này Bà-la-môn, có năm căn này, đối cảnh khác nhau, hành cảnh khác nhau, chúng không dung nạp hành cảnh đối cảnh của nhau. Thế nào là năm? Nhãn căn... thân căn. Này Bà-la-môn, năm căn này, đối cảnh khác nhau, hành cảnh khác nhau, chúng không dung nạp hành cảnh đối cảnh của nhau, ý làm chỗ quy tựa cho chúng, ý dung nạp hành cảnh đối cảnh của chúng.

-- Nhưng thưa Tôn giả Gotama, cái gì làm chỗ quy tựa cho ý?

-- Này Bà-la-môn, niệm là chỗ quy tựa cho ý’.

Chúng ta thấy rằng sáu căn môn được thu thúc do nhờ có niệm và áp dụng niệm này bằng cách quán trực tiếp sự sinh diệt khi các căn môn tiếp xúc với cảnh khả ái, hoặc không khả ái và không có tham ái, chấp thủ trong đó. Đây là trợ giúp cho sự phát triển tuệ. Nếu chưa đủ sức, thì thu thúc lục căn bằng cách không để tư tưởng bất thiện xen vào khi tiếp xúc với các cảnh , bằng cách dùng tư tưởng thiện để hướng dẫn tâm theo thiện pháp. Đây là trợ giúp cho sự phát triển định. Khi tâm thanh tịnh thì việc chú niệm sinh diệt dễ dàng. Do vậy, người có tín tâm hướng về giải thoát thì dù tuệ mạnh, tuệ yếu cũng tự mình nếm hương vị Diệu pháp. Phật ngôn sau đây càng rõ ràng hơn:

Do vậy, này các Tỷ kheo, chớ có đi đến chỗ không phải hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của người khác. Này các Tỷ kheo, đi đến chỗ không phải hành xứ của mình, đi đến cảnh giới của người khác, thời Ác ma nắm được cơ hội, Ác ma nắm được đối tượng.

Này các Tỷ kheo, chỗ nào không phải hành xứ của Tỷ kheo? Chỗ nào là cảnh giới của người khác? Chính là năm dục công đức. Thế nào là năm?

Có các sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Có các tiếng do tai nhận thức... Có các hương do mũi nhận thức... Có các vị do lưỡi nhận thức... Có các xúc do thân nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này các Tỷ kheo, đây là chỗ không phải hành xứ của Tỷ kheo, chỗ cảnh giới của người khác.

Này các Tỷ kheo, hãy đi đến chỗ hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của cha mẹ mình. Này các Tỷ kheo, đi đến chỗ hành xứ của mình, đến cảnh giới của cha mẹ mình, thời Ác ma không nắm được cơ hội, không nắm được đối tượng.

Và này các Tỷ kheo, chỗ nào là chỗ hành xứ của Tỷ kheo? Chỗ nào là cảnh giới của cha mẹ? Chính là bốn niệm xứ (S.v,146)’

Con đường đến tứ niệm xứ phải qua thu thúc các căn và 3 thiện hành ( ba nghiệp thanh tịnh). Xin lập lại : thu thúc lục căn và 3 thiện hành nếu tuệ mạnh do người có duyên thuần thục thì dùng quán trực tiếp. Nếu người tuệ yếu thì tinh tấn hướng dẫn tâm bằng tư tưởng thiện. Khi duyên tròn đủ thì thất giác chi là bảy yếu tố đưa đến giác ngộ cũng tròn đủ. Đừng mong hô biến có đầy ly Diệu Pháp, mà hãy tạo ra từng giọt do nơi sự điều phục tâm kiên trì và một ly đầy Diệu Pháp nơi tâm là thành quả của mỗi hành giả, không ai cho được.

Bài viết năm 2021 khác