Thực điên Tỳ kheo Giác Lộc

09/12/2021 - 20:04   352

THỰC ĐIÊN ĐIÊN THỰC

Câu chuyện đang đọc nói về bệnh điên thực sự, một bác sĩ bổng phát ra bệnh điên. Rồi một giáo sư đại học cũng mắc bệnh tương tự. Công danh, sự nghiệp của cả hai quả là sớm nở chiều tàn. Hai trường hợp rơi vào giới có học thức để cho thấy bệnh này quá nguy hiểm. Giới bình dân ít học không tránh được và con số mắc bệnh có thể là rất nhiều. Khi một người mất đi ý thức hoàn toàn và rơi vào điên loạn do một cú sốc quá mạnh thì y học có thể giúp phục hồi. Trường hợp do tâm bệnh thì bác sĩ tài giỏi cũng khó cứu chữa. Điên vì tâm bệnh là do mất phước. Hãy tìm ý nghĩa của phước để hiểu loại bệnh này. Pāli gọi là puñña, dịch là phước. Nghĩa là có thiện căn và thân tâm an lạc. Người có phước lành cao thượng là người có ‘pubbe ca katapuññatā (có phước đã tạo trong đời trước). Mất phước là không giữ được phước và tội (pāpa) xen vào. Khi đó thân tâm đau khổ.

Tâm bệnh này có thể do nhân ác trong đời trước, cũng có thể do nhân ác trong đời này. Một người không giữ được ngũ giới là nhân tạo ra tội, nếu tội quá mạnh làm mất khả năng nhận thức, đưa đến điên loạn. Con người sinh ra có pubbe ca katapuññatā (phước đã tạo trong đời trước) nên sáu căn - mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều tốt. Đó là quả của phước. Cách giữ phước vững chắc là tinh tấn tu tập để tạo thuận duyên. Nếu không biết giữ phước, sống dể duôi (phóng dật) thì tội xen vào, sẽ tạo ra nghịch duyên. Đi đến tình trạng điên loạn là quá muộn, không còn bảo vệ được mình nữa. Nhiều người lâm vào tình cảnh này được gia đình cầu cứu đến bùa chú. Đó là cách chữa trị không đúng căn bệnh, vì bùa chú không giúp chuyển được cái tội và người bệnh còn là nạn nhân của thầy bùa chú lâu dài. Nếu gia đình tận tâm với người bệnh nên đưa người bệnh đến gần Tam Bảo, khi ý thức phục hồi thì xin thọ Tam Quy, ngũ giới và bắt đầu tinh tấn hướng về Phật Pháp để tạo thuận duyên. Điều quan trọng là có thành tâm mới có hiệu quả. Đây là cách chữa tận gốc, chuyển tội thành phước, lấy lại điều đã mất.

ooooo
Phần 2

THỰC ĐIÊN ĐIÊN THỰC

Điên vì thiền là không may thực hành theo một loại tà thiền. Theo đường hướng vừa tà vừa hành trì sai lạc làm cho tâm trí rối loạn dẫn đến điên loạn. Gọi là không may vì lạc vào tà thiền sẽ để lại hậu quả tai hại lâu dài cho đến những kiếp sống khác. Chánh pháp hộ trì người thực hành chánh pháp. Chánh pháp không hộ trì người thực hành tà pháp. Khi không được hộ trì thì hậu quả không lường được.

Theo chánh thiền, là thiền Phật giáo cũng có thể rơi vào điên loạn vì những duyên cớ: Thứ nhất là tự hành trì, không cần hỏi ai, thứ hai là niệm (sati) quá yếu.

Trong khi hành trì có thể gặp những vọng tưởng như thấy Phật, thấy ma, cảnh tiên, cảnh địa ngục, ngạ quỷ. Nếu nắm giữ những cảnh đó, sinh ra vui thích hoặc sợ hải thì cũng có thể rơi vào điên loạn. Những cảnh như vậy đều là ảo ảnh và là những chướng ngại của thiền. Khi không có ai hướng dẫn, hoặc có hướng dẫn mà không thích hỏi, đến khi bị ảo ảnh làm cho điên loạn thì không cứu vãn được. Niệm quá yếu khi gặp ảo ảnh mà không nhận ra, bị cuốn hút vào ảo ảnh. Sống trong ảo ảnh cũng là một nguyên nhân của điên loạn vì thiền. Có chánh thiền nhưng hành sai sinh ra thân bệnh như nhức đầu, đau bụng v.v… Nguyên nhân là hành sai nên tâm trí rối loạn. Trong trường hợp như vậy nên nhanh chóng quay lại vì đã lạc vào tà thiền rồi. Nếu vẫn tiếp tục thì chỉ chuốc lấy thân bệnh và tâm bệnh, khi tâm bệnh trầm trọng dẫn đến điên loạn là thường tình. Chánh thiền luôn luôn có niệm và khi xả thiền thân tâm rất an lạc như người vừa tắm xong.

Đây là câu chuyện về rơi vào vọng tưởng trong thiền. Một tu nữ trước đây tham dự khoá thiền, có thiền sư uy tín hướng dẫn. Bà tu nữ ngồi thiền đạt hỷ lạc kéo dài ba giờ. Đến khi hỷ lạc hết, bà thấy một ảo ảnh, đó là mẹ của bà đã chết lâu rồi. Trong lúc đang ngồi, bà nói chuyện với ảo ảnh, người ngoài không nghe được. Đây là niệm quá yếu nên không nhận ra đó là ảo ảnh, đã bỏ mất đề mục. Khi ảo ảnh biến mất, bà nhớ mẹ nên ngồi khóc, một căn nhà vô chủ thì ai vào cũng được, lúc đó phi nhân nhập vào bà, khiến bà xả thiền và la hét. Các thiền sinh đọc kinh để phi nhân xuất ra, nhưng nó không sợ, còn nhái lại. Thiền sư đến, ban đầu phi nhân chống lại cả thiền sư luôn. Sau đó, thiền sư giảng Pháp, khuyên nhủ nó. Cuối cùng nó nghe lời và cho thiền sư biết nó phá bà tu nữ này vì dòng họ của bà có oan trái oán thù với nó. Thiền sư khuyên nó từ bỏ thù oán. Phi nhân này nghe theo và xin quy y với thiền sư. Câu chuyện có thực này để cho thấy có thầy mà như vậy, khi tự hành trì, không học hỏi nguy hiểm đến mức nào nữa.

Muốn tránh tai hại khi thiền cần phải có lòng tin trong sạch nơi Tam Bảo, có ngũ giới, có căn bản về Phật Pháp và luôn luôn trau dồi niệm (sati). Điều cần thiết là dưới sự hướng dẫn của vị thầy và cần phải hỏi khi có vấn đề. Quá tự tin khi mình chưa hiểu hết thế giới nội tâm để rơi vào vọng tưởng hoặc thực hành sai, chứng nghiệm sai thì không an tịnh, giải thoát được mà còn thêm thời gian mất, tật mang. Tâm trạng đó sẽ đi theo hướng điên loạn mà không biết điên loạn như trường hợp nghĩ mình đã chứng đắc, hoặc điên loạn hoàn toàn do đi lạc quá xa.

ooooo

Phần 3

Ý nghĩa và sự cần thiết của niệm (sati) trong thiền

Niệm (sati) là danh từ, động từ sarati là nhớ. Theo nghĩa thông thường là nhớ việc này, việc kia, nhớ những bài đã học, nhớ các ngoại ngữ đã học. Trong ngôn ngữ thường đàm sati là trí nhớ. Nhưng khi Sati áp dụng theo nghĩa tâm lý, nhất là trong thiền thì sati không phải là cách nhớ thông thường, cũng không phải là trí nhớ. Trong Vi diệu pháp, sati là tâm sở tịnh hảo biến hành, có mặt trong tất cả tâm tịnh hảo. Công việc của sati là không quên (asammosa). Phản nghĩa của sati là satisammosa (thất niệm), tính từ là muṭṭhassati. Không quên ở đây không phải là quên bài học hoặc quên công việc này nọ. Phận sự của sati là không quên trong các thiện pháp. Sati ví như người giữ cổng không quên phận sự là chỉ cho người tốt vào. Sự không quên mang ý nghĩa tâm lý đặc biệt, đó là sự nhạy bén, tinh tường trước các pháp bất thiện. Đó là sự tỉnh thức hoặc giác tỉnh. Thức (jāgarati) và ngủ (supati) dùng theo nghĩa thông thường. Ở đây dùng thức theo nghĩa tâm lý, như Phật ngôn ‘Sati lokasmi jāgaro” (niệm là pháp tỉnh thức trong thế gian). Do vậy không quên là trạng thái tỉnh thức, không mê ngủ mà niệm đảm đương để giúp tâm luôn luôn tỉnh táo trong giây phút hiện tại. Khi có niệm thì lục căn được thu thúc, sáu căn môn được bảo vệ. Nếu thất niệm, thì tâm mê ngủ và phiền não, triền cái ập vào lập tức.

Tinh cần giữa phóng dật,

Tỉnh thức giữa quần mê.

Người trí như ngựa phi,

Bỏ sau con ngựa hèn.

Pc. 29 – HT. (Thích Minh Châu dịch)

Niệm phải tu tập mới có, một người kiến thức thế gian sâu rộng chưa hẳn là có niệm, đó chỉ là trí nhớ tốt. Bởi vì người này có thể sáng về mặt ngoại giới nhưng tối về mặt nội tâm, vẫn bị các phiền não xâm chiếm thường xuyên. Con chó của Giác Lộc tk buổi tối chạy hết tốc lực ngang qua những thân cây lớn để đuổi con mèo. Rất dễ va vào gốc cây và không thể sống được. Nhưng dù chạy nhanh như vậy, nó không hề chạm vào vật cản nào. Phải chăng nó có niệm rất tuyệt vời hơn cả người ta ? Khả năng đó không phải là niệm, đó là sự chú ý đặc biệt của loài chó, một loại bản năng tự nhiên. Không là niệm, bởi vì nó không biết tu tập là gì, nó chỉ bám theo con mồi và không hề kiểm soát được tham, sân, si.

Theo Vi diệu pháp, niệm là tâm sở tịnh hảo biến hành. Niệm có mặt trong các tâm tịnh hảo. Trong tạng kinh có đề cập đến tà niệm, nhưng Vi diệu pháp nêu ra sati hoàn toàn là tâm sở tịnh hảo, không có sati trong tâm sở bất thiện, cho nên không có tà niệm. Tại sao trong tạng kinh chính Đức Phật nói có tà niệm, còn Vi diệu pháp nói không? Theo chú giải tà niệm không có chi pháp nhất định, nó chỉ là tên gọi của bốn danh uẩn bất thiện khi nghĩ về quá khứ. Thiền sư U Sīlānanda giải thích thêm ‘Theo chú giải không có những điều như tà niệm, nhưng khi nhớ đến những lỗi lầm đã làm trong quá khứ, lúc đó gọi là tà niệm, thực ra đó là saññā (tưởng) kết hợp với các tâm bất thiện và các tâm sở đi theo chúng'. Giải thích của chú giải cho chúng ta hiểu tà niệm theo tạng kinh là dùng theo nghĩa chế định để diễn đạt chi phần tà đạo đối nghịch với chi phần chánh đạo là chánh niệm. Còn trong Vi diệu pháp chỉ có niệm là chi pháp chân đế là sở hữu tịnh hảo, trong khi đó tà niệm không có chi pháp trong chân đế, không có sở hữu bất thiện nào gọi là tà niệm. Đó là những ảo ảnh, những trò ảo thuật vụn vặt, chấp nối được tưởng dựng lên qua nhiều lộ tâm, không có gì là thực chất trong đó, chỉ có kẻ thất niệm mới nắm lấy những bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương như thế.

Khi làm các việc thiện như bố thí, trì giới thì niệm sẽ có mặt, làm phận sự không quên trong những việc thiện đó. Quả thực như vậy, nếu không có niệm người ta sẽ không làm tốt những việc thiện như thế, lúc đó sẽ có xao lãng hoặc làm cho có. Trong thiền, niệm là sự tỉnh thức thường xuyên trên đề mục. Thiền không tốt, không an tịnh vì niệm quá yếu, khiến cho tâm hời hợt, trôi nổi trên đề mục. Khi niệm mạnh tâm đi sâu vào đề mục, lúc đó an lạc của thiền xuất hiện rõ ràng. Nếu có những lo ngại về những ảo ảnh có thể gây ra điên loạn thì chính là do có niệm vững chắc sẽ bảo vệ hành giả trong mọi trường hợp, hành giả sẽ nhận ra lập tức khi có phóng tâm hoặc thất niệm. Khi tâm an tịnh, không còn bị những triền cái quấy rối, hành giả cần tiến xa hơn sự an tịnh đã có thì cũng chính là do niệm giúp hành giả thành tựu được kết quả này. Niệm cần thiết trong thiền chỉ, nghĩa là giúp cho định tăng trưởng. Niệm cũng cần thiết trong thiền quán, nghĩa là giúp cho tuệ tăng trưởng. Do đó, khi tâm xao động cần phải có niệm để cứu vãn. Khi tâm an tịnh cũng cần có niệm để thanh tịnh hơn.

Niệm không phải là trí nhớ, niệm là sự tỉnh thức của nội tâm do tu tập mà có. Nhưng người có niệm tốt sẽ có trí nhớ tốt. Những bệnh về già như lẫn lộn, đãng trí, mất trí nhớ do mấy chục năm trời lao vào công việc, chạy theo áp lực của lo âu, phiền muộn. Sức nặng của những phiền não như thế tác động lên bộ não qua một thời gian dài như vậy thì làm sao chịu nổi, cho nên bệnh quên lúc về già sẽ xảy ra tùy mức độ của mỗi người. Niệm giúp cho tâm thanh tịnh, giải thoát mà còn giúp duy trì trí nhớ cho đến cuối đời. Muốn lúc về già không có lú lẫn thì hãy thực hành niệm trong đời sống hằng ngày, tỉnh thức trong những điều thích và không thích, vì luôn tỉnh thức trong giây phút hiện tại nên không có lo âu, phiền muộn, do đó tâm không bị tán loạn vì những phiền não. Khi tâm bình an trong niệm thì thân cũng an theo, tạo ra cách ngăn ngừa bệnh trí não mà không có y dược nào sánh bằng.

Bài viết năm 2021 khác