Đắc nhân tâm Tỳ kheo Giác Lộc

07/12/2021 - 22:21   592

Pháp Đắc Nhân Tâm Theo Lời Phật Dạy
 

Saṅgahavatthu (Nhiếp Pháp)

 

Saṅgaha: là tập hợp, thu nhiếp, giúp đỡ.
Vatthu: là cơ sở, nền tảng, nguyên tắc đạo đức.
Tứ nhiếp pháp là bốn nguyên tắc hoặc bốn phương cách gây thiện cảm và để giúp đỡ tha nhân. Bốn nguyên tắc này khi áp dụng sẽ chiếm được thiện cảm của mọi người, đem lại hòa hợp trong gia đình và xã hội. Thế giới muốn sống chung trong hòa bình cũng phải có bốn nhiếp pháp này. Saṅgahavatthu có hai nghĩa ứng dụng. Khi cần gây thiện cảm với mọi người thì phải có Saṅgahavatthu. Khi muốn giúp người thì cũng phải có Saṅgahavatthu, các Hòa thượng Nam tông dịch là ‘ Bốn pháp tế độ’. Chư Bồ tát trong khi thực hành Ba la mật hạnh dùng Saṅgahavatthu để giúp đỡ chúng sanh. Bốn pháp gồm có: Dāna, peyyavajja, attthacariyā, samānattatā. Dịch là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.

Dāna (Bố thí): Dāna khi dịch là bố thí thường bị hiểu sai là từ dành cho những kẻ nghèo khổ, thấp hèn. Thực ra Dāna có nghĩa rất rộng từ việc dâng cúng chư Tăng, con nuôi cha mẹ, cha mẹ chăm sóc con, bạn bè giúp nhau, người giàu giúp kẻ nghèo. Tùy trường hợp có thể dịch là cúng dường, tặng, biếu, cho …

Bố thí đối nghịch với bỏn xẻn, cho nên bố thí còn gọi là cāga (dứt bỏ). Người có tâm bố thí là người rộng lượng nên cũng không chứa chấp ganh tỵ đối với những gì người khác có, trái lại hoan hỷ với hạnh phúc của tha nhân. Người bám chặt những gì mình có không bố thí được. Khi thực hành nhiếp pháp này để giúp tha nhân thì ngoài việc bố thí vật chất (āmisadāna) như thức ăn, thuốc men, tài chính … còn phải bố thí pháp (dhammadāna) bằng việc hướng dẫn người tránh điều ác, làm điều lành để đem lại lợi ích về phương diện tinh thần. Bố thí là hạnh cao thượng vì ngoài việc gây thiện cảm và giúp người, hạnh này còn là pháp môn tu tập để dứt bỏ, xả ly phiền não tham, bỏn xẻn, ganh tỵ. Tác dụng của bố thí gây thiện cảm và giúp đỡ tha nhân biểu hiện rõ rệt trong đời sống, cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi dạ xoa Ālavaka hỏi ‘ Làm thế nào để kết được bạn?’ và Đức Phật trả lời là ‘ Dadaṃ mittāni ganthati - Bố thí kết được bạn’.

Peyyavajja hoặc Piyavācā (Ái ngữ): Lời nói dịu dàng, tao nhã,. Đối nghịch của ái ngữ là lời nói thô lỗ, cay nghiệt, gây tổn thương.

Ái ngữ là nhiếp pháp bởi vì lời nóI có sức mạnh vô cùng, lợi và hại nằm ở lời nói. Chỉ vì nghe lời lẽ xúc phạm mà hoàng tử Vidūdabha , con vua Pasenadi nước Kosala kéo quân qua tiêu diệt dòng Thích Ca. Cho nên người xưa có câu ‘Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy - một lời nói ra bốn ngựa khó đuổi theo kịp’. Dù có hạnh bố thí mà không áp dụng ái ngữ thì khó gây thiện cảm dù vật thí quý giá. Người ta sẽ nhớ mãi sự bố thí nếu người cho dùng ái ngữ đối với người nhận. Nếu như bố thí nhiếp cần phải có tâm vô tham thì ái ngữ nhiếp cần phải có tâm vô sân, đồng nghĩa với tâm từ. Người duy trì sân thì khó dùng ái ngữ và dễ gặp thất bại trong đời sống.

Attthacariyā (Lợi hành): Hành động đem lại lợi ích.

Attthacariyā là cách thể hiện hành động hữu ích đối với tha nhân. Những việc thiện nào đem lại lợi ích khi thực hiện đều là lợi hành, cho nên lợi hành còn gọi là hành động vị tha.

Từ gia đình đến xã hội, lợi hành đem lại sự hạnh phúc, trái lại hành động vị kỷ thường tạo ra nhiều đau khổ cho mọi người. Cha mẹ không làm điều lợi ích cho các con thì gia đình đó thiếu tình thương. Xã hội cũng cần đến lợi hành để đem lại ổn định và phát triển. Khi làm lợi hành thì phương tiện là tiền của, công sức, thời gian tùy theo trường hợp. Ngoài lợi ích đời này, còn có lợi ích đời sau và lợi ích xuất thế gian. Đối với những lợi ích này cần phải phát triển những đức tính nội tâm như tín, giới, văn ( nghe, học Pháp), thí, tuệ. Cố gắng giúp người thành tựu những pháp này là lợi hành cao quý. Thực hiện lợi hành nhiếp là vì tâm bi, không cầu lợi lộc, đền đáp, chỉ mong đem lại lợi ích và hạnh phúc cho mọi người. Đối tượng của chư Bồ tát khi làm lợi hành còn xa hơn, tức là hướng đến tất cả chúng sanh.

Samānattatā (Đồng sự)

Cách xử sự bình đẳng với mọi người. Đồng sự thì không có tâm kiêu ngạo, coi mình hơn người. Tính cách hòa đồng với mọi người được thấy nơi nhiếp pháp này.

Ba nhiếp pháp bố thí, ái ngữ và lợi hành là những cách giúp đỡ tha nhân, tuy nhiên nếu thiếu đồng sự thì sự giúp đỡ sẽ không hoàn hảo. Người làm việc lành mà có tâm kiêu ngạo dễ dẫn đến khinh người, từ đó việc thiện vì lợi ích chung sẽ trở thành hạn hẹp trong sự tự tôn. Xử sự bình đẳng cũng cần đến tâm vô tư, không thiên vị. Khi thương, ghét, si mê, sợ xen vào trong xử sự sẽ rơi vào thiên vị. Chẳng hạn vì ghét kẻ đó mặc dù biết người này đúng vẫn cho là sai và dành cái đúng cho kẻ sai là người mình thương. Để giúp cho việc thực hiện đồng sự có hiệu quả cũng cần đến đức tính Samānasukhadukkha (cùng chia sẻ trong hạnh phúc cũng như trong đau khổ). Nếu chỉ xử sự bình đẳng khi mọi việc bình thường và quay lưng khi tha nhân gặp trở ngại thì cũng khó thực hiện nhiếp pháp này.

Xử sự bất bình đẳng trong phạm vi nhỏ đã tai hại rồi, nếu mở rộng trong toàn xã hội thì tác hại lớn. Nạn phân biệt giai cấp xảy ra trầm trọng trong xã hội thời Đức Phật và pháp đồng sự được thực hiện trong hàng xuất gia và tại gia theo lời dạy của Đức Phật, vì con người cao quý hoặc thấp hèn không phải do giai cấp mà do hành động nơi thân, khẩu, ý.

Bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự là bốn nhiếp pháp dùng để giúp đỡ mọi người và quả phúc cho người thực hiện là được nhiều thiện cảm và lòng kính phục. Tứ nhiếp pháp ảnh hưởng sâu rộng trong các xứ theo Phật giáo Nam tông. Kể từ khi Phật Pháp du nhập, các vua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan … đều áp dụng tứ nhiếp pháp trong việc trị quốc.

Trong Tăng chi bộ kinh 4, phẩm bánh xe có Phật ngôn:

Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành và đồng sự,
Ðối với những pháp này,
Ở đời đối xử nhau,
Chỗ này và chỗ kia,
Như vậy thật tương xứng,
Và bốn nhiếp pháp này,
Như đinh đầu trục xe,
Nếu thiếu nhiếp pháp này,
Thời cả mẹ lẫn cha
Không được các người con
Tôn trọng và cung kính,
Do vậy bậc Hiền trí,
Ðồng đẳng nhìn nhiếp pháp
(Tăng chi bộ kinh 4, HT. Thích Minh Châu dịch)
-------
* Chú thích:

Như đinh đầu trục xe: Āṇi là cái đinh chốt ở đầu trục xe, giữ cho bánh xe không rơi ra ngoài. Bánh xe tiếp tục lăn đều nhờ có đinh chốt ở đầu trục xe. Tứ nhiếp pháp ví như cái đinh chốt giúp cho cỗ xe đời sống lăn đều và ngay cả cha mẹ muốn được con cái thương yêu, kính trọng cũng phải thực hành tứ nhiếp pháp.

 

ooooo

NỖI LÒNG CHA MẸ

 

Nhiều bậc cha mẹ ưu tư dù lo cho con đầy đủ vẫn không sửa đổi tâm tính của con được. Nguyên nhân đã được Đức Phật chỉ rõ trong Tăng chi bộ kinh:

Nếu thiếu nhiếp pháp này,
Thời cả mẹ lẫn cha
Không được các người con
Tôn trọng và cung kính.

Đúng như vậy, con không vâng lời là do cha mẹ thiếu một phần nào đó trong tứ nhiếp pháp. Yếu tố tâm lý giữ phần trọng yếu khi thực hành tứ nhiếp và đồng sự nhiếp cần phải có yếu tố tâm lý sâu sắc hơn nữa.

Cha mẹ thực hành tứ nhiếp pháp đối với các con như thế nào ?

Bố thí nhiếp: lo chu đáo về ăn mặc, những nhu cầu cần thiết hằng ngày. Lo về mặt tinh thần, dạy cách tránh điều ác, làm điều lành.Yếu tố tâm lý ở đây là lòng vị tha đối với con, hy sinh cho con và hoan hỷ khi con nên người.

Ái ngữ nhiếp: dùng lời dịu dàng, êm ái với con. Mắng nhiếc, đánh đập không phải là phương pháp hay vì dễ gây tổn thương tâm trí con. Yếu tố tâm lý ở đây là tâm từ. Khẩu từ mà tâm không từ thì không thuyết phục được con.

Lợi hành nhiếp: làm điều đem lại lợi ích cho con. Lo về sức khỏe, học vấn, nghề nghiệp, đạo đức. Yếu tố tâm lý là tâm bi đối với con. Mong con tránh những rắc rối và gặp nhiều thuận lợi trong đời sống.

Đồng sự nhiếp: hòa mình với con. Một số bậc cha mẹ quá nghiêm khắc, luôn đứng ở vai trò bậc trên nên không hiểu được con. Làm cho sợ và làm cho hiểu mình là hai sự việc khác nhau. Cha mẹ cũng không hiểu được tâm tư của con, nhất là những đứa không ngoan hiền nếu không hòa mình với chúng. Tuy nhiên hòa mình không phải là vui đùa xả láng với con. Cha mẹ vẫn giữ phong cách của đấng sinh thành, nhưng đừng quá xa cách, phải gần gũi, tìm hiểu tâm tư và đưa ra những lời khuyên đúng lúc. Sự hòa mình không làm giảm uy thế của cha mẹ, trái lại còn tăng thêm lòng kính trọng của các con vì cha mẹ có nội tâm thâm trầm cao cả. Yếu tố tâm lý là tâm vô tư, khách quan, không thiên vị đối với người con nào.

Tại thành Vương Xá có gia đình phật tử thuần thành. Người con trai tên Siṅgāla. Cha mẹ cố gắng thuyết phục con noi gương của họ hướng về Tam Bảo, nhưng bất thành. Cậu ta lý luận ‘Gặp các sa môn có ích gì cho ta. Bởi vì phải lễ bái khiến lưng và đầu gối đau, lại còn dơ hết quần áo, chưa hết khi tiếp họ, quen họ rồi phải dâng cúng này nọ, thiệt thòi cho ta quá!’.

Người cha trong lúc lâm chung dặn dò con ‘ Con thân yêu, khi cha chết rồi, mỗi sáng con phải ra khỏi thành Vương Xá, lễ bái sáu phương’. Người con hứa vâng theo lời cha dạy bảo. Tại sao ông lại khuyên con như vậy? Bởi ông luôn luôn nghĩ đến hạnh phúc của con, lúc sống không thuyết phục được con thì lúc chết phải làm sao cho con sống trong chánh pháp. Nếu mỗi sáng con mình thực hành lễ bái sáu phương như thế sẽ gặp Đức Phật hoặc đệ tử của Ngài và nghe được Phật pháp.

Thanh niên Siṅgāla theo lời trăn trối của cha, thức dậy vào lúc sáng sớm, với tóc và y phục ướt, từ thành Vương Xá nhiều dân cư đi về hướng ngoại thành rừng cây bát ngát, đồi núi chập trùng, thực hành lễ bái sáu phương – đông, nam, tây, bắc, dưới, trên. Như mọi buổi sáng từ khu Trúc Lâm do vua Bimbisāra dâng cúng, Đức Phật vào thànhVương Xá khất thực. Ngài thấy Siṅgāla đang lễ bái sáu phương. Ngài hỏi ý nghĩa của việc làm này. Siṅgāla trả lời ‘Bạch Thế Tôn, cha con lúc lâm chung có lời dặn dò con phải lễ bái sáu phương, vì kính trọng lời của cha nên con thực hành việc lễ bái’. Bấy giờ, Đức Phật nói với Siṅgāla ‘ Này thanh niên gia chủ, trong Thánh luật lễ bái sáu phương không phải như vậy’.
- Bạch Thế Tôn, trong Thánh luật lễ bái sáu phương như thế nào? Lành thay, mong Thế Tôn dạy con cách lễ bái sáu phương theo Thánh luật !

Nhân đó Đức Phật giảng bài kinh đặc sắc tên là Siṅgālovāda Sutta. Cha mẹ (mātāpitu) là phương đông, thầy (ācariya) là phương nam, vợ con (puttadārā) là phương tây, bạn bè (mittāmaccā) là phương bắc, tôi tớ và công nhân (dāsakammakarā) là phương dưới, sa môn – bà la môn (samaṇabrahmaṇā) là phương trên. Mỗi phương được lễ bái đúng cách thì phương đó sẽ được bình an vô sự.

Cuối bài kinh thanh niên Siṅgāla hiểu được ý nghĩa theo Phật pháp và xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, trở thành người cận sự nam kể từ khi phát nguyện ra lời.

-----------
& Trong câu chuyện người cha áp dụng tứ nhiếp pháp với người con bằng nhiều cách, nhưng không dùng cách mắng chưởi, áp đặt. Có bố thí, ái ngữ với con. Lợi hành là luôn đem lại điều lợi ích cho con. Đồng sự là tìm hiểu tâm tư của con, cuối cùng nghĩ ra cách để giúp con thay đổi tâm tính qua việc lễ bái sáu phương và gặp Đức Phật.

& Xin xem đầy đủ kinh Siṅgālovāda Sutta, kinh thứ 31 trong Trường bộ kinh, bản tiếng Việt của Hòa Thượng Thích Minh Châu là Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt.

& Sa môn - bà la môn (samaṇabrahmaṇā) chỉ cho người xuất gia bao gồm Đức Phật và các đệ tử.

 

Bài viết năm 2020 khác