Rừng vọng tưởng Tỳ kheo Giác Lộc

09/12/2021 - 08:54   339

Như người đi lạc vào khu rừng và bị bao quanh bởi gai góc chằng chịt. Một khoảng rừng rậm mịt mùng như vậy tìm lối ra khó vô cùng. Khu rừng của đời sống còn chằng chịt và mịt mùng hơn. Ai không biết cách ra khỏi nó thì đường luân hồi là vô tận. Đó là ý nghĩa của câu:

Chúng sanh thích hý luận,
Như Lai, hý luận trừ.

Chúng sanh thích hý luận,
Như Lai, hý luận trừ.

Hý luận nghĩa là bàn luận phù phiếm, vô nghĩa. Cách dịch này phù hợp với từ prapanca của Sanscrit , không tương đương với Pāli. Papañca trong Pāli nghĩa là sự lan tỏa các tà tư duy trong tâm. Khi đi với Papañcasaññāsaṅkhā, có nghĩa các pháp chế định (khái niệm) do tưởng làm cho lan tỏa các tà tư duy trong tâm. Papañca khi kết hợp với saññā (tưởng) dịch là vọng tưởng. Vọng tưởng trong Hán Việt là mơ tưởng xằng bậy, lung tung, trong Pāli nhấn mạnh về sự lan tỏa, nghĩa là vọng tưởng rất mạnh, bao trùm cả tâm trí. Do vậy có thể dịch câu pháp cú cho rõ hơn:
Chúng sanh thích vọng tưởng
Như lai vọng tưởng trừ.

Có ba vọng tưởng liên quan đến cái ngã
Cái này của tôi (etaṃ mama) là những tưởng tượng, vọng tưởng liên quan đến ái (taṇhā). Cái này là tôi (esohamasmi) là những tưởng tượng, vọng tưởng liên quan đến mạn (māna, kiêu ngạo, so sánh, đánh giá mình với người). Cái này là tự ngã của tôi (eso me attā) là những tưởng tượng, vọng tưởng liên quan đến tà kiến (diṭṭhi). Sự lan tỏa của các tà tư duy liên quan đến ba vọng tưởng này là những loại vọng tưởng khiến cho lạc lối trong khu rừng rậm trong cuộc đời. Chúng lan tỏa đến đâu là làm méo mó cái tâm, đầu độc cái tâm như loại thuốc độc hại hủy diệt môi trường.

Do vậy sứ mạng cao cả của kiếp nhân sinh là nhanh chóng thoát ra theo con đường của Đức Phật chỉ dẫn.
Do ái, mạn, tà kiến tạo ra vấn đề tồn tại, không tồn tại của cái ngã ở hạng phàm phu và dẫn đến ngã chấp về thường kiến và đoạn kiến. Do kẹt trong khu rừng vọng tưởng khi nghe Đức Phật dạy về nòng cốt của giáo pháp là khổ và diệt khổ, những kẻ phàm phu vô văn sẽ hoang mang và lo âu rằng diệt khổ tức là tiêu diệt cái ngã của họ, như vậy thì làm cho họ đau khổ nhiều hơn, đây là quan điểm đoạn kiến, một loại hư vô luận rất nguy hại. Thực ra ngã chấp là chấp vào chế định (khái niệm) và tạo ra các vọng tưởng.

Ba vọng tưởng tạo ra xung đột bên trong như chạy theo tham, sân, si, các kiết sử và bên ngoài như lừa dối người, cướp của, tranh chấp, chiến tranh.
Như con nhện giăng tơ và chết trong đó, thế giới khái niệm do vọng tưởng tạo ra và trở lại giam cầm kẻ tạo ra trong khu rừng luân hồi vô thủy trong quá khứ và vô chung trong tương lai nếu không có lối ra.

Một người bình thường tránh điều ác giữ tròn năm giới đã là khá rồi. Nhưng khi nói đến vấn đề vọng tưởng – ái, mạn, tà kiến thì giới hạnh trang nghiêm chỉ là một phần trong sự tu tập. Hành giả tiến xa hơn trong việc phát triển thiền chỉ và thiền quán và vẫn phải đối mặt với vọng tưởng.. Nói chung là tu tập giới, định, tuệ để giúp ra khỏi khu rừng vọng tưởng, không phải chần chừ ở lại đó. Người học đạo bước đầu là từ bỏ các điều ác. Bước kế tiếp khi tâm đã thanh tịnh thì phải học từ bỏ những điều thiện, tức là những pháp thiền, những tuệ đã chứng đắc. Nếu dừng lại đó, chấp thủ vào đó thì vẫn còn ở trong khu rừng. Ngay cả bậc thánh Bất lai gần đến A la hán rồi vẫn còn phải tu tập để trừ hết các vọng tưởng. Người đã giải thoát, chánh pháp còn phải bỏ, nói gì phi pháp mà không bỏ. Người chưa giải thoát thì lấy những gì đã chứng đắc làm mục đích cho nên tạo thành vọng tưởng từ những gì đã đạt được. Đây là những phần liên quan đến quan điểm và tri kiến trên con đường giải thoát.

Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói. Và tâm này bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào. Kẻ phàm phu ít nghe, không như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm kẻ phàm phu ít nghe, không được tu tập.
Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói. Và tâm này được gột sạch các cấu uế từ ngoài vào. Bậc Thánh đệ tử nghe
nhiều, như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm bậc Thánh đệ tử nghe nhiều có được tu tập.
(Tăng chi bộ kinh I. VI. Phẩm Búng Ngón Tay)

Phật ngôn trên nêu rõ do ô nhiễm từ bên ngoài tạo ra vọng tưởng về thế giới chế định liên quan đến cái ngã khiến cho tâm trong sáng trở thành ô nhiễm và cách để đem lại tâm thanh tịnh là gột sạch hết những ô nhiễm từ bên ngoài tức là cái thế giới chế định gồm có những vọng tưởng, ảo tưởng, tưởng tượng để trở về với cái thấy, biết như thực, không chấp vào các quan điểm, không loanh quanh trong khu rừng mịt mùng của đời sống nữa.
-----
Phần 2:
Như lai vọng tưởng trừ.

Như Lai Vọng Tưởng Trừ

Bởi vì chấp vào các pháp chế định (khái niệm) nên sinh ra ba
loại vọng tưởng mà chúng sanh luôn bám vào là ái, mạn và tà kiến tạo thành khu rừng mịt mùng nhốt chúng sanh trong đó. Ngày nào còn vọng tưởng là còn luân hồi tiếp diễn. Như Lai là bậc ra khỏi khu rừng vọng tưởng nên không có vấn đề thích hoặc mê chấp trong vọng tưởng.

Đức Phật đã đưa ra một Phật ngôn độc nhất vô nhị:
Nāhaṃ, bhikkhave, lokena vivadāmi, lokova mayā vivadati.
(Này các Tỷ kheo, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta) - Tương ưng bộ kinh III, 113.

Tại sao Đức Phật nói không tranh luận với đời, trong khi chính Ngài đã từng trình bày pháp với nhiều phương cách, vạch ra những điểm sai lầm của kẻ đối thoại để bác bỏ tà kiến của họ? Thực thú vị khi hiểu ý nghĩa của Phật ngôn này. Chúng ta hãy xem như thế nào là tranh luận và không tranh luận dựa vào kinh điển.
Trường hợp tranh luận khi còn vọng tưởng. Bàn luận chuyện thế gian hoặc luận Đạo có ái nên đặt tự ái lên hàng đầu, cho ý kiến của mình trên hết, không lắng nghe người khác. Có mạn nên đề cao mình, coi thường người, muốn phần thắng về mình. Có tà kiến nên đồng hóa ý kiến của mình với tự ngã. Cho rằng chính cái ta đang điều khiển cuộc nói chuyên với một cái ta khác. Vọng tưởng tạo ra xung đột từ bên trong và thể hiện ra bên ngoài bằng những cuộc tranh luận.
Trường hợp không có tranh luận khi những cuộc xung đột bên trong chấm dứt. Dù cho Đức Phật nói rất nhiều với kẻ đối thoại Ngài cũng không có tranh luận, chỉ có kẻ đối thoại đơn phương tranh luận, vì kẻ đó còn vọng tưởng cho nên còn hơn thua.
Khi đối thoại tất cả những chế định (khái niệm) về ngôn từ và ý nghĩa được Đức Phật sử dụng chúng và đều biết chúng là những khái niệm, Ngài sử dụng chúng để diễn đạt cho mọi người hiểu nhưng Ngài không lầm lạc khi sử dụng như phàm phu, cho nên ái, mạn và tà kiến không hề có khi sử dụng những chế định (khái niệm) như thế, tại sao ? Vì ngài đã xả ly tất cả những chế định (khái niệm) và đã qua bờ sinh tử. Đối với đấng Giác ngộ thế giới vọng tưởng là tương đối, tùy thuộc vào cái khác, duyên sinh nên không có gì để tham ái, dính mắc vào.

Khi thuyết Pháp cho các đệ tử tâm ngài thanh tịnh, khi đối thoại với ngoại đạo tâm ngài thanh tịnh. Dù ngoại đạo có khiêu khích, có ngoan cố cỡ nào Ngài vẫn giữ tâm thanh tịnh, bình thản. Có lần một du sĩ tuyên bố với mọi người khi tranh luận với Đức Phật sẽ làm cho Phật toát mồ hôi hột. Nhưng sau cuộc nói chuyện Đức Phật nhắc lại lời tuyên bố đó và chỉ cho mọi người thấy một chút mồ hôi nơi Phật cũng không có, còn vị du sĩ thì mồ hôi thấm ướt và nhỏ giọt xuống đất.

Các chế định (khái niệm) nơi lời nói và ý nghĩa tạo thành lý thuyết và khi chấp vào lý thuyết đó sẽ hình thành ngã chấp áp đảo tâm trí phàm phu vô văn. Do đó họ rơi vào tranh luận bất tận rằng chỉ đây là chân lý ngoài ra là phi chân lý. Khi đã có định kiến, kiến chấp thì chỉ có quan điểm một chiều chớ không có chân lý trong đó. Những cuộc tranh luận như thế chỉ tăng trưởng ái, mạn và chấp vào thường kiến hoặc đoạn kiến của vọng tưởng về tự ngã. Đức Phật không tranh luận với đời vì Ngài không ở trong bất cứ quan điểm một chiều nào, không theo biên kiến nào nên lời tuyên bố không tranh luận với đời là hoàn toàn chính xác. Thái độ của Đức Phật khi nói với đệ tử và ngoại đạo giống như bác sĩ nói với bệnh nhân. Dù bệnh nhẹ, nặng khác nhau, bác sĩ cần phải nói vì lợi ích của bệnh nhân, muốn cho bệnh nhân hết bệnh. Đức Phật cũng vậy, Ngài nói Pháp vì tâm đại bi muốn cho chúng sanh hết bệnh vọng tưởng và Pháp như thuốc chỉ cần thiết và áp dụng cho người bệnh. Sự hết bệnh nghĩa là diệt khổ và diệt khổ không phải là sự tiêu diệt cái ngã như đoạn kiến luận, diệt khổ mang ý nghĩa là chấm dứt nhiên liệu gồm có các vọng tưởng và khi lửa vọng tưởng không bùng lên nữa thì đây là chấm dứt khổ trong khu rừng mịt mùng của đời sống và không gì khác hơn là kiếp luân hồi.

Ở trong khu rừng vọng tưởng thì không có gì an toàn. Sự thoát ra là khẩn cấp như lúc căn nhà đang cháy. Đối với chúng sanh còn bị vọng tưởng áp đảo phải theo phương cách nào để thoát ra? Phật ngôn chỉ rõ:
Hỡi này A ji ta,
Các dòng nước ở đời,
Chánh niệm ngăn chận lại,
Chánh niệm được Ta gọi,
Chế ngự các dòng nước,
Và chính do trí tuệ,
Ðóng lại các dòng nước. ( Suttanipāta . 1035)

Dòng nước tuôn chảy là vọng tưởng về các pháp chế định (khái niệm) tạo thành ái, mạn và tà kiến. Dùng niệm để ngăn lại như lời Phật dạy:

Ðại vương, thế nào là Tỷ kheo hộ trì các căn? Này Ðại vương, khi mắt thấy sắc, Tỷ kheo không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, khiến nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, Tỷ kheo tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, Tỷ kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy, nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy, nên hưởng lạc thọ nội tâm, không vẩn đục. Như vậy, này Ðại vương, Tỷ kheo hộ trì các căn. (Trích kinh sa môn quả, trường bộ kinh 2)

Dùng trí tuệ để chấm dứt các dòng nước như lời Phật dạy:

Vậy này Bàhiya, Ông cần phải học tập như sau: "Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là các thức tri ". Như vậy, này Bàhiya, Ông cần phải học tập. Vì rằng, này Bàhiya, nếu với Ông, trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiva, ông không là chỗ ấy. Vì rằng, này Bàhiya, Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.
(Trích Kinh Phật Tự Thuyết (Cảm Hứng Ngữ), (X) (Ud 6)

Trích dẫn trên để nêu rõ về quá trình thực hành. Niệm và tuệ như nêu trên sẽ từng bước đến với hành giả thực hành đúng tứ niệm xứ trong đời sống hằng ngày.
----
Phần 3

Các hành không thường trú,
Chư Phật không dao động.

 

Các hành không thường trú

Chư Phật không dao động

Saṅkhārā sassatā natthi, natthi buddhānamiñjitaṃ

Các hành là các pháp hữu vi - nội xứ, ngoại xứ, chúng sanh, con người, mặt trời, mặt trăng, địa cầu, đại dương, núi non, nhà cửa, đất đai là hữu vi, do nhân duyên tạo ra nên thuộc về pháp sinh diệt. Các pháp hữu vi bao gồm trong năm uẩn- sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Không thể tìm thấy sự thường hằng, thường trú trong năm uẩn. Cái gì thuộc về pháp hữu vi phải đi đến sự biến chuyển, tiêu hoại.

Chư Phật không hề xao động đối 8 pháp thế gian (được lợi, mất lợi, được danh, mất danh, khen ngợi, chê bai, đau khổ, hạnh phúc). Tại sao như vậy? Bởi vì các đấng Như Lai đã giác ngộ pháp thế gian (lokadhamma) chính là năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), không còn chút vọng chấp nào với năm uẩn. Vì giác ngộ như vậy nên chư Phật không bao giờ bị ô nhiễm bởi bất cứ cái gì liên quan đến pháp thế gian như hoa sen vươn lên khỏi bùn nhơ nước đọng.

Hư không, không dấu chân,

Ngoài đây, không sa môn,

Chúng sanh thích hý luận,

Như Lai, hý luận trừ (PC:254)

Hư không, không dấu chân,

Ngoài đây, không sa môn.

Các hành không thường trú,

Chư Phật không dao động. (PC:255)

Tóm lại, hai kệ ngôn trên nói lên bốn điều không thể có:

Không có dấu chân trên hư không,

Không có sa môn bên ngoài Phật Pháp,

Không có sự thường hằng trong các pháp hữu vi,

Không có sự xao động trong chư Phật.

Bài viết năm 2020 khác