Thấy Pháp Tỳ kheo Giác Lộc
09/12/2021 - 09:03 357
Một nữ đạo sĩ có kiến thức quảng bác đi khắp xứ Ấn độ để tìm đối thủ tranh luận. Khi đến nơi nào bà cặm một cành trâm bên đường, ai muốn tranh luận thì nhổ cành trâm. Nhưng từ lúc cặm xuống cho đến khi cành cây khô héo, không ai dám nhổ lên. Ngày kia đến thành Sāvatthi, bà cũng cặm cành trâm, ngài Xá Lợi Phất đi ngang, bảo bọn trẻ dẫm lên cành trâm. Cuộc tranh luận diễn ra. Ngài Xá Lợi Phất cho nữ đạo sĩ hỏi trước, cuối cùng không còn gì để hỏi, bà ngồi im lặng và chờ câu hỏi . Ngài hỏi ‘ Thế nào là một?’ Bà thú nhận không trả lời được dù đã theo học với các bậc danh sư. Theo lời khuyên bà đến gặp Đức Phật, sau khi đảnh lễ Phật, bà nghe dạy:
Dù nói ngàn câu kệ
Nhưng không chút lợi ích
Tốt hơn nói một câu
Nghe xong được tịnh lạc.
Dứt kệ ngôn, bà chứng quả A la hán và xin xuất gia tỳ kheo ni.
Bài đăng ‘Thấy Pháp của bậc Thánh’, giúp quý vị hiểu tại sao nữ đạo sĩ không trả lời được và cũng không được giải đáp.
Yo dhammaṃ passati so maṃ passati
Yo maṃ passati so dhammaṃ passati
Ai thấy Pháp là thấy Phật
Ai thấy Phật là thấy Pháp.
Dịch sát nguyên văn:
Người nào thấy Pháp, người đó thấy Ta
Người nào thấyTa, người đó thấy Pháp.
- Maṃ là đối cách số ít của đại từ nhân xưng amha (nghĩa là tôi, ta). Đức Phật dùng đại từ nhân xưng để nói về mình. Khi ở chủ cách số ít thì dùng ahaṃ ( tôi, ta), số nhiều dùng mayaṃ (chúng tôi, chúng ta). Trong tiếng Việt khi dùng đại từ nhân xưng thì tùy theo trường hợp, thật đa dạng, xưng là tôi, con, anh, chị, em, cô, dì, bác, chú … để nói về mình. Trong tiếng Pāli, Đức Phật nói về mình, Ngài dùng ahaṃ (tôi, ta) với người đối diện. Khi người khác nói với Đức Phật, dù là vua nói, hoặc dân thường nói, cũng dùng đại từ nhân xưng ahaṃ.
Muốn hiểu rõ Phật ngôn này trước hết hãy tìm hiểu ba từ Phật, Pháp, thấy. Kế đến là giải rộng về ý nghĩa.
Phần I:
Phật là gì? Theo định nghĩa thường gặp thì Phật nghĩa là đấng giác ngộ, Pāli là Buddha, biến thể từ động từ Bujjhati, nghĩa là biết, tỉnh thức, giác ngộ. Định nghĩa theo Tăng chi bộ kinh, Phật là đấng vô nhiễm đối với thế gian như hoa sen vươn lên khỏi nước và không bị nước làm cho thấm ướt. Ngài đã vươn lên khỏi loài người và chư thiên, vì loài người có sự chấp thủ của loài người, chư thiên có sự chấp thủ của chư thiên. Nhìn quanh thế giới, các trận chiến diễn ra khốc liệt và chưa có hồi kết. Thế giới chư thiên, phạm thiên cũng không thoát khỏi xung đột, không ngoại cảnh thì cũng nội tâm. Do vậy Phật là đấng đã đoạn trừ các lậu hoặc thế gian (dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu).
Pháp là gì? Dhamma, biến thể từ động từ dhāreti, nghĩa là mang, giữ, nâng đỡ. Cái gì mang, giữ cái nét, tính chất riêng của nó gọi là pháp. Cho nên tất cả sự vật từ vật chất đến tinh thần gọi là pháp. Giác Lộc tk tìm thấy 27 nghĩa của pháp. Tùy theo ngữ cảnh áp dụng. Trong câu ‘Ai thấy Pháp’, chữ pháp ở đây là gì?
Thấy Pháp trong câu này nghĩa là thấy chân lý. Có hai chân lý: chân đế và tục đế. Chân đế là thực tại, còn tục đế là phi thực tại, là những khái niệm, thuộc chế định. Đàn ông, đàn bà là tục đế, chỉ là những quy ước trong đời do tâm trí tạo nên, cho nên chỉ là những khái niệm, không phải thực tại. Thấy Pháp là khám phá chính mình, để hiểu rõ con người mình như thế nào. Do không thấy Pháp nên phần đông chỉ thấy qua vẻ ngoài, chấp vào những chế định, từ đó tạo ra những ảo tưởng về con người sinh diệt của mình là thường hằng, kết quả là đau khổ. Thấy chính mình là thấy những gì liên quan đến danh sắc, là những thực tại do nhân duyên kết hợp. Thực tại để thấy là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý - sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu nội xứ và sáu ngoại xứ này là Pháp hoặc chân lý cần phải thấy. Những pháp này do duyên sanh, vô thường, khổ, vô ngã. Thấy chúng đến mức độ không còn chấp thủ là thấy Pháp.
Đức Phật giảng cho vị tỳ khưu tên Upavāna về cách thực hành thấy Pháp như sau: Khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý nhận biết pháp. Vị ấy cảm thọ sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, cảm thọ tham và có nội tham với chúng, vị ấy biết rõ ‘Tôi có nội tham với chúng’. Nếu vị ấy không cảm thọ tham với chúng và không có nội tham với chúng, vị ấy biết rõ ‘Tôi không có nội tham với chúng’. Đến mức độ như vậy là thấy Pháp. Từ Thấy (passati) không phải thấy bằng mắt, phải thấy bằng tuệ. Đồng nghĩa với (jānāti - biết) .
Tuy nhiên còn tùy theo năng lực tuệ quán của hành giả, việc thấy Pháp kéo dài bao lâu mới là điều đáng lưu ý. Đối với người chưa phải là bậc dự lưu khó duy trì việc thấy Pháp lâu dài. Trở ngại lớn lao cho hành giả chính là thân kiến còn ngự trị nơi tâm. Thay vì thấy nội ngoại xứ, danh sắc là tập hợp của các duyên như thời gian thấy Pháp , hành giả bị thân kiến xen vào trong cuộc sống và thấy con người mình không phải bằng nội quán nữa mà bằng cái nhìn hời hợt bên ngoài, lúc đó ý niệm về một cái ta thường tại dù vi tế đi nữa sẽ điều khiến cái thấy theo chế định như bản thân, người chung quanh, sự vật chung quanh, tất cả dều được nhìn thấy như là những thực tại và trở thành kiến điên đảo - vô thường cho là thường, khổ cho là lạc, vô ngã cho là ngã đối với nội ngoại xứ hoặc danh sắc. Cái dòng sinh diệt bất tận được biến thành cái vẻ ngoài toàn vẹn như cái xe, căn nhà, nam, nữ, hòn núi. Dòng sinh diệt đó chính là tướng của khổ, do tuệ quán yếu nên sinh ái đối với chúng. Theo Tương ưng bộ kinh, một vị A na hàm mặc dù tuệ quán đã vượt qua thân kiến, nhưng thỉnh thoảng ý niệm về cái ‘ta là’ vẫn khởi lên. Ý niệm này không phải do thân kiến điều khiển, đó. là dư tàn của phiền não như người đã giặt sạch cái áo, nhưng mùi của bột giặt còn sót lại. Đối với phàm phu dù là kiến hoặc mạn không phải là dư tàn mà là những năng lượng sống động hằng chi phối tâm trí. Cho nên cần phải:
Nỗ lực, không phóng dật
Tự điều, khéo chế ngự
Bậc trí xây hòn đảo
Nước lụt khó ngập tràn – Kinh Pháp Cú 25.
Phần II
Bậc Thánh thấy Pháp
‘Ai thấy Pháp là thấy Phật’ trong trường hợp chưa phải là bậc Thánh, chỉ đúng ở những sát na tiếp cận với Pháp. Khi sống trong đời sống thường nhật, thân kiến là những kiến điên đảo về ngã chi phối qua những gì thấy, nghe, nhận thức, lúc đó không gọi là ‘thấy Pháp thấy Phật nữa’.
Do phát triển tuệ quán hành giả tiếp cận với Pháp và mắt Pháp mở ra (dhammacakkhu). Mắt Pháp này là Pháp nhãn khác với cái thấy, cái nhìn hời hợt của phàm phu. Ai có Pháp nhãn được gọi là bậc thánh dự lưu (sotāpanna – người vào dòng thánh đạo). Nơi dòng thánh đạo này, thấy Pháp còn gọi là Thấy Thánh đế. Lần đầu tiên mở mắt Pháp sau vô số kiếp sống phiệu dạt trong vòng luân hồi, đến đây hành giả thấy rõ con người và thế giới chỉ là những tập hợp của nhân duyên, có bản chất sinh diệt. Vị ấy thấy Pháp, tức là thấy chân lý, còn gọi là những thực tính (sabhāva) sinh diệt bao gồm danh sắc, hoặc ngũ uẩn. Thấy Pháp là tự mình thực chứng Pháp, không phải do tin theo người khác. Lúc đó chỉ có Pháp, không có ta người. Nhãn thức và cảnh sắc là Pháp. Không có ta thấy sắc, mà chỉ có nhãn thức là thực tính danh, và cảnh sắc là thực tính sắc. Cả hai là Pháp. Các thức khác và cảnh của chúng cũng là Pháp, không có ta, người trong đó. Nếu nhìn ra bên ngoài dù đến tận những hành tinh ngoài trái đất cũng không có Pháp nhãn này, nhìn vào bên trong chính mình thì hiểu cả thế giới. Pháp hoặc chân lý chỉ được tìm thấy nơi chính mình. Phàm phu nhìn bên trong và bên ngoài bằng cái nhìn phân biệt, chỉ nhìn thấy qua chế định, qua những khái niệm, do đó không thấy Pháp. Bậc thánh Dự lưu do diệt thân kiến nên vượt qua cái nhìn theo chế định, vị ấy có cái nhìn của người ‘Thấy Pháp’.
Phần III. Bậc Thánh Hữu Học
Kinh Tam Bảo (ratanasutta) diễn tả vị Dự lưu (sotāpanna) ' đã từ bỏ ba pháp là thân kiến, nghi và giới cấm thủ. Đã thoát khỏi bốn đoạ xứ, không bao giờ phạm sáu điều ác (ngũ nghịch đại tội và xu hướng theo ngoại đạo), nếu vô ý phạm lỗi lầm nơi thân, khẩu, ý, vị ấy cũng không bao giờ giấu giếm'.
Đối với phàm phu vòng sinh tử luân hồi là vô thủy vô chung, còn bậc Dự lưu tối đa bảy kiếp sống là thoát vòng sinh tử, cho nên gọi là bậc thất lai. Phàm phu có thể rơi vào một trong bốn ác đạo, bậc dự lưu hoàn toàn thoát khỏi bốn ác đạo. Ưu điểm của bậc Dự lưu do đâu mà có? Chính là lần đầu tiên thực chứng thực tại vô vi (Niết bàn). Thành quả của vị ấy tạo ra năng lực kềm hãm tốc lực của bánh xe nghiệp quả mà phàm phu không bao giờ có được. Dù vậy, vị ấy vẫn chưa đủ khả năng kiểm soát duc ái tinh tế đối với những cảnh dục khả ái và sân tinh tế đối với những cảnh dục không khả ái. Dĩ nhiên vị ấy không có những loại dục ái và sân quá nông nổi như phàm phu. BậcThánh thứ hai là vị Nhất lai (sakadāgāmi), chỉ còn một kiếp sống là thoát vòng sinh tử. Vị này giảm nhẹ dục và sân hơn bậc Dự lưu. Bậc thánh thứ ba là vị Bất lai (anāgāmi) . Vị này bứng tận gốc dục ái và sân và còn lại năm thượng phần kiết sử (sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh), gọi là bất lai vì đối với những cảnh dục vị ấy không còn lưu luyến nữa nên sau khi chết không sinh lại cõi dục giới, vị ấy sinh về cõi tịnh cư thiên và đạt đến quả vị tối thượng nơi đó.
Dự lưu, Nhất lai, Bất lai là những vị Hữu học (sekha). Chữ học ở đây không phải là học chữ nghĩa mà là học giới, định, tuệ (tam học), học đồng nghĩa với hành. Chư vị còn hành trì theo giới, định, tuệ để bứng hết gốc của phiền não nơi tâm.
Người chưa hiểu Phật Pháp cho rằng đạo Phật là một đạo bi quan khi mới hiểu loáng thoáng về chữ khổ trong chân lý đầu tiên - ‘khổ đế’. Do cách nhìn khổ của mỗi người nó quyết định nhân sinh quan của người đó. Người chưa biết gì về giáo lý khổ hoặc người mới đặt chân bên ngoài ngưỡng cửa giáo lý sẽ quan niệm rằng đời là khổ thật và họ tìm mọi cách để lẫn trốn khổ. Cái khổ mà họ hiểu chỉ là những cái khổ như đói khát, bệnh tật, thất nghiệp, gia đình ly tán … Nhưng khi no ấm, khỏe mạnh, thăng tiến nghề nghiệp, gia đình hòa hợp… đối với họ là thoát khổ, được hạnh phúc.
Người đã có chiều sâu giáo lý hiểu rằng cái khổ và vui dựa trên cảm giác đều là khổ. Do đó đang sống an nhàn, thoải mái vẫn thấy cái khổ hiện diện vì cái hạnh phúc đó do cảm giác tạo ra, mà cảm giác tan biến rất nhanh, thưởng thức xong món ăn ngon thì lạc thọ cũng ra đi nhường chỗ cho những hồi ức về món ăn. Sinh, lão, bệnh, tử. sầu, bi, khổ, ưu, não bị gán cho là tư tưởng bi quan, thực ra đó là những thực tại của đời sống, bị chi phối bởi luật vô thường nên không thể kéo dài an lạc như mong muốn. Khi người ta lẫn trốn khổ thì cũng như người muốn thoát khỏi không khí hít thở hằng ngày, càng lẫn trốn càng đồng hành với nó. Khổ bao gồm cả hai mặt hạnh phúc và đau khổ của đời sống. Khi Đức Phật dạy ‘tóm lại năm thủ uẩn là khổ’ Ngài bao gồm toàn bộ con người, thân tâm, chỗ nào có chấp thủ là có khổ. Cho nên tập đế là chân lý về nguyên nhân sinh ra khổ. Nhân đó chính là ái (ham muốn), khi ái mạnh đối với cái gì thì có chấp thủ (dính mắc), có thủ với cái gì thì cái đó là khổ, sầu bi khổ ưu não khởi sinh do có thủ đối với thân tâm.
Khổ đế là chân lý về những thực tại thuộc về danh sắc, dù ở hình thức nào, khổ lạc của thân, hỷ ưu của tâm đều là khổ và muốn giác ngộ chân lý khổ không phải lẫn trốn mà phải đối diện, thiền quán và hiểu nó. Một người hiểu khổ không phải là người bi quan mà là người đã hiểu thực tại bị che lấp lâu đời, thực tại đó là không có gì phải chấp thủ đối với thân tâm luôn sinh diệt, nếu bám vào thì sẽ mê lầm như người bám vào con thuyền không đáy giữa trùng dương.
Người hiểu giáo lý về khổ sẽ không bao giờ cho rằng đạo Phật là bi quan vì Đức Phật giảng về tứ đế không phải nhất đế. Khổ đế - chân lý về những khổ uẩn thuộc danh sắc, tập đế - chân lý về nguyên nhân sinh khổ chính là Ái, diệt đế - chân lý về sự diệt khổ và đạo đế - chân lý về con đường đưa đến diệt khổ. Tứ đế chỉ được chứng ngộ bằng như thực tri kiến (yathābhūtañāṇadassana), chỉ bậc thánh đã chín muồi trí tuệ thiền quán mới hiểu khổ và chứng ngộ chân lý diệt khổ.
Người sinh trong đời có ba hạng: Người lạc quan lo tận hưởng mọi thú vui, người bi quan than thân trách phận, người thực tế hiểu rằng mỗi người là một khách trọ của cõi đời, không phải là người chủ, cho nên có thể ra đi bất cứ lúc nào, những gì cần làm là hiểu thực tại của đời sống, không phải lẫn trốn. Nhiệm vụ cao cả của người khách trọ là hiểu khổ để chấm dứt những cuộc hành trình bất tận trong luân hồi.
AI LÀ NGƯỜI HIỂU PHÁP CỦA PHẬT
‘Tôi hiểu như thế này, tôi hiểu như kia’. Đây là quan điểm, ý kiến riêng, là cái hiểu của mỗi người chưa phải là hiểu Pháp. Một người có Pháp là người có giới, có định, có tuệ nơi tâm. Sự thanh tịnh của giới, định, tuệ gọi là có Chân Pháp (Dhamma) và mỗi lời của người đó biểu hiện của người hiểu Pháp. Khi đời sống tuột ra khỏi giới, định, tuệ thì Chân Pháp nhường chỗ cho phi chân pháp (adhamma) và mỗi phát biểu trở thành tư kiến, tư ý không phải là Pháp của Phật nữa. Nhưng giới, định, tuệ của người có Chân Pháp không nên hiểu theo cái nhìn hời hợt bên ngoài, phải nhìn sâu vào sự thanh tịnh và giải thoát, chỉ khi nào giới, định, tuệ đưa đến thanh tịnh và giải thoát thì đây mới là Pháp và đời sống của người đó mới thực sự nở ra những liên hoa thơm ngát qua lời nói, hành vi và ý nghĩ.
THẤY PHÁP CỦA BẬC THÁNH
Phần cuối
Người có thực hành Pháp là người từ bỏ những điều ác và an trú trong những thiện pháp. Đời sống có giới hạnh là đời sống gần với Pháp, tin theo nghiệp báo, nhân quả và xa lìa phi pháp. Khi có giới hạnh tâm trí được an lạc, không lo âu, hối tiếc nhưng đời sống vẫn bị yêu ghét chi phối. Chưa đủ khả năng nhìn thấy những tâm trạng đối nghịch tốt- xấu, tịnh- bất tịnh, an- bất an, vui-khổ, đều là những tưởng niệm tan biến chớp nhoáng.
Tiến xa hơn trên đường thấy Pháp, hành giả nhận thấy những tư tưởng thiện ác đều là những danh pháp, là những thực tính luôn luôn sinh diệt, khởi lên do duyên và diệt do duyên. Nhận thấy tính vô thường, rỗng không, vô ngã của tư tưởng thích và không thích thì tham sân không còn là gánh nặng đè nén tâm trí. Một trạng thái bình lặng làm cho dễ chịu, một trạng thái như tâm sân làm cho khó chịu không còn gây xung đột nội tâm, trái lại hành giả nhìn thấy tất cả là những pháp thực tính sinh diệt, không có gì để bám bíu vào, không có ta tốt, ta xấu trong đó. Những pháp thực tính này chính là Pháp mà bậc thánh đã nhìn thấy, đã đối diện trực tiếp và đạt đến tâm thanh tịnh giải thoát.Nhưng đối với phàm phu chỉ là những tưởng niệm ngã chấp, dính mắc tạo nên xung đột nội tâm, quay cuồng theo cái khổ bất tận trong đời sống. Khi nội quán đã đến mức độ của bậc thánh thì phiền não không còn quyền lực sai khiến như trước đây nữa, thay vì nô lệ phiền não, trở thành hiểu nó và buông bỏ nó.
Có hai loại hạnh phúc: Hạnh phúc do các căn tiếp xúc các với các trần là mong manh, luôn luôn có bóng dáng của khổ, vì có ái (bất cứ đối tượng nào khi chưa đủ trí tuệ đều là nhân duyên sinh ái và khi ái mạnh sẽ thành thủ = nắm chặt lấy), thường che khuất trí tuệ thấy chân Pháp. Loại hạnh phúc này tùy thuộc nhiều nhân duyên, cho nên không bền vững, món ăn ngon sẽ không còn hấp dẫn nữa nếu đang bị bệnh, hoặc đang bực tức ai đó. Loại hạnh phúc thứ hai là thấy rõ thực tướng của các pháp trong ngoài do nhân duyên sinh là vô thường, sinh diệt, từ bỏ tham ái, chấp thủ chúng và đạt đến hạnh phúc không có tướng sinh diệt là Niết bàn. Từ Pāli Nibbāna (Niết bàn) là sự kết hợp hai từ ni + vāna, ni là không, vāna là ái. Nibbāna là không có ái hoặc ra khỏi ái. Bởi vì phàm phu bám vào những phi thực tại mà tưởng là thực tại nên ái tăng trưởng và khổ tiếp diễn. Mắt thấy, tai nghe … với cái nhìn phi thực tại là có ta thấy người đó, vật đó; tiếng người, tiếng thú …và cùng lúc thấy và nghe. Khi có cái nhìn đúng thực tại thì trước khi mắt thấy, phải có sự kết hợp của nhãn căn và cảnh sắc mới có nhãn thức và người đó, vật đó chỉ là cảnh sắc, phải qua lộ ý môn mới hiểu được đó là người , là vật. Như vậy người, vật không có thực trong mắt, chỉ là những chế định do tâm trí tạo nên. Đối với tai nghe cũng vậy, phải có sự kết hợp của nhĩ căn và cảnh thinh mới có nhĩ thức và tiếng người, tiếng thú chỉ là những cảnh thinh, phải qua lộ ý môn mới phân biệt tiếng của người, của thú. Do đó, tiếng của người, của thú không có thực, chỉ là những chế định do tâm trí tạo nên. Thực tính pháp diễn biến quá nhanh và phải hội đủ các duyên mới phát sinh, nhưng theo thói quen người ta vẫn cho rằng cùng lúc thấy và nghe, sự thực thì lúc thấy không thể có nghe xen vào, cái này diệt thì cái kia mới sinh. Phàm phu chấp vào những chế định nên ái thủ và ngã chấp tiếp diễn và sầu bi khổ ưu não sinh khởi. Bậc thánh đã hiểu các căn, các cảnh, các thức là những thực tại, thực tính, chân đế nên không có ái thủ đối với chúng và mới diệt được ái để chứng ngộ Niết bàn, cho nên Niết bàn đồng nghĩa với diệt đế , chân lý diệt khổ vì chấm dứt ái. Càng hiểu nhiều về các pháp thực tính càng bứng nhanh gốc của ái và càng tiến gần đến Niết bàn. Hiểu các pháp thực tính là hiểu khổ, hiểu bản chất vô thường, rỗng không của nó thì ảo tưởng về sự bền vững bấy lâu tan vỡ.
Thấy Pháp Của Bậc A La Hán
Bỏ lại cái nhìn sự vật theo bề ngoài, đầy những ảo tưởng và chấp thủ vào những thứ không thực do tâm trí tạo dựng lên, bậc thánh thấy các pháp là những thực tính luôn luôn sinh diệt, những thực tính này là saṅkhāra (hữu vi) luôn sinh diệt và do duyên tạo ra nên không có cốt lõi như cây chuối, thấy như vậy bậc thánh không còn ảo tưởng về vẻ ngoài và không dính mắc đối với danh sắc. Đối với phàm phu không tu tập luôn luôn đuổi bắt đối tượng khả ái và lẫn trốn đối tượng không khả ái. Đuổi bắt và lẫn trốn đều là chấp thủ. Những đối tượng khả ái, không khả ái thay đổi chớp nhoáng, cho nên người ta chấp thủ liên tục mỗi khi thấy, nghe, ngửi … Chúng là Saṅkhāra do duyên tạo ra nên là khổ, cần phải buông bỏ thay vì chấp thủ. Hiểu saṅkhāra là hiểu khổ vì saṅkhāra chính là khổ. Khi không còn chấp thủ vào saṅkhāra thì diệt ái và bậc thánh thực chứng chân lý diệt khổ, chân lý này không phải là saṅkhāra (hữu vi) mà là thực tại vô vi (visaṅkhāra) đồng nghĩa với Niết bàn.
Theo đặc tính vắng lặng các pháp hữu vi thì Niết bàn chỉ có một. Nói cho rõ là ở sát na đạo quả A la hán, các pháp hữu vi không còn là đối tượng nữa, được buông bỏ hoàn toàn. Tâm đạo, tâm quả lấy Niết bàn làm đối tượng nên không thể nói Niết bàn là hư vô như thuyết đoạn diệt. Niết bàn có hai loại khi căn cứ vào năm uẩn là những thành phần dư sót của chấp thủ quá khứ: 1) Hữu dư Niết bàn (saupādisesa-nibbāna) đây là Niết bàn của vị A la hán đã diệt hết phiền não, nhưng vị ấy vẫn còn kinh nghiệm những gì dễ chịu và không dễ chịu do mắt thấy, tai nghe …như trường hợp cảm nhận làn gió mát hoặc bị muỗi chích. Vô dư Niết bàn (anupādisesa-nibbāna) đây là Niết bàn của vị A la hán sau khi đã nhập Niết bàn, các kinh nghiệm, cảm thọ do các căn đem lại không sinh khởi nữa. Phải cẩn thận khi nói về Niết bàn. Hiểu Niết bàn là một nơi vĩnh cửu sẽ rơi vào thuyết thường kiến. Hiểu Niết bàn là đoạn diệt hư vô sau khi chết sẽ rơi vào thuyết đoạn kiến. Thường kiến và đoạn kiến đều là tà kiến xuất phát từ ngã chấp. Không để rơi vào hai biên kiến tai hại như trên cần phải hiểu các pháp hữu vi do nhân duyên sinh là khổ. Khi nhiên liệu là vô minh và ái khô cạn thì khổ chấm dứt, như ánh sáng của cây đèn tắt vì hết dầu và tim khô, không thể nói nó còn hay không còn, bởi vì nó dựa vào nhiên liệu mà sinh ra, và diệt cũng do hết nhiên liệu.
Bài kệ Pāli sau đây diễn tả các nét chính của loạt bài thấy Pháp:
‘Aniccā vata saṅkhārā uppādavayadhammino
Uppajjitvā nirujjhanti, tesaṃ vūpasamo sukho’ti.
Thực vậy, các pháp hữu vi là vô thường. Có bản chất sinh và diệt. Sau khi sinh chúng diệt. Sự chấm dứt của chúng là an lạc’.
Các pháp hữu vi là vô thường và cái gì vô thường là khổ. Sự chấm dứt các pháp hữu vi là an lạc chỉ cho đạo quả A la hán. Các pháp hữu vi không gì khác hơn là danh sắc hoặc ngũ uẩn tiếp nối sinh diệt và luân hồi. Đối với vị A la hán, đây là đời sống cuối cùng, năm uẩn hiện tại không còn làm duyên tạo ra uẩn mới nữa, cho nên vị A la hán được diễn tả là người đã đặt chân an toàn trên bờ kia.
Thấy Pháp tức là thấy Tứ Thánh Đế, như câu ‘Diṭṭhadhammo pattadhammo ‘ (Thấy Pháp, chứng ngộ Pháp). Chỉ có vị A la hán mới là người thấy và chứng ngộ hoàn toàn Tứ Thánh Đế, cho nên vị ấy xứng danh là người thấy Phật hoàn toàn.
Bài viết năm 2020 khác
- Trí nhớ tốt Tỳ kheo Giác Lộc
- Thương mình Tỳ kheo Giác Lộc
- Thiên tử Tỳ kheo Giác Lộc
- Thánh đệ tử Tỳ kheo Giác Lộc
- Rừng vọng tưởng Tỳ kheo Giác Lộc
- Pháp Phi Pháp Tỳ kheo Giác Lộc
- Phân tích niệm xứ Tỳ kheo Giác Lộc
- Năm tháng Pali Tỳ kheo Giác Lộc
- Kiếm đạo Tỳ kheo Giác Lộc
- Không lầm người Tỳ kheo Giác Lộc
- Học và Hành Tỳ kheo Giác Lộc
- Học Ít Học Nhiều Tỳ kheo Giác Lộc
- Duyên vô duyên Tỳ kheo Giác Lộc
- Gió đời Tỳ kheo Giác Lộc
- Dự lưu hướng chi Tỳ kheo Giác Lộc
- Đời sống trí tuệ Tỳ kheo Giác Lộc
- Điều độ Tỳ kheo Giác Lộc
- Chuyện tái sinh Tỳ kheo Giác Lộc
- Tiếng chuông chùa Tỳ kheo Giác Lộc
- Bài viết chủ nhật Tỳ kheo Giác Lộc
- Chánh Pháp hộ trì Tỳ kheo Giác Lộc
- Chân hạnh phúc Tỳ kheo Giác Lộc
- Chuyện thiền Tỳ kheo Giác Lộc
- Cách soi gương Tỳ kheo Giác Lộc
- Hiểu Phật Pháp Tỳ kheo Giác Lộc.
- Bốn loại thức ăn Tỳ kheo Giác Lộc
- Biết bệnh Tỳ kheo Giác Lộc.
- Biên kiến Tỳ kheo Giác Lộc
- Đắc nhân tâm Tỳ kheo Giác Lộc