Gió đời Tỳ kheo Giác Lộc
08/12/2021 - 23:11 379
Tùy Chuyển Thế Giới
1. - Tám pháp thế gian này, này các Tỷ-kheo, tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này. Thế nào là tám?
2. Lợi dưỡng và không lợi dưỡng, danh vọng và không danh vọng, tán thán và chỉ trích, lạc và khổ.
Tám pháp thế gian này, này các Tỷ-kheo, tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này.
Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng
Tán thán và chỉ trích
An lạc và đau khổ
Những pháp này vô thường
Không thường hằng biến diệt
Biết chúng giữ chánh niệm
Bậc trí quán biến diệt
Pháp khả ái, không động
Không khả ái, không sân
Các pháp thuận hay nghịch
Ðược tiêu tan không còn
Sau khi biết con đường
Không trần cấu, không sầu
Chơn chánh biết sanh hữu
Ði đến bờ bên kia.
Tăng chi bộ kinh, chương 8 pháp, phẩm Từ, (V)
------
Tám pháp thế gian này tùy chuyển thế giới.
Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này.
-------
268. Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không động, không sầu,
Không uế nhiễm, an ổn
Là điềm lành tối thượng.
- Suttanipāta ( Kinh tập)
------
Tám pháp thế gian này tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này.
----
Nội dung của đề tài rất thâm thúy, đi từ lokadhamma (pháp thế gian) đến lokuttaradhamma (pháp xuất thế gian). Mở đầu Đức Phật dùng từ tùy chuyển với nghĩa là xoay quanh, Chúng ta thấy khoa học khám phá địa cầu xoay quanh mặt trời. Với trí toàn giác, Đức Phật khám phá hai sự việc – pháp thế gian xoay quanh thế giới và thế giới xoay quanh pháp thế gian.
Lokadhamma là pháp thế gian. Pháp (dhamma) ở đây nghĩa là điều kiện hoặc quy luật chi phối đời sống. Thế gian (loka) là chúng sanh.
Kinh điển Pāli từ ngàn xưa đã nêu ra pháp thế gian gồm có: Lābha (lợi), Alābha (thất lợi), Yasa (danh), Ayasa (thất danh), Nindā (chê), Pasaṃsā (khen),Sukha (hạnh phúc), Dukkha (đau khổ). Tám điều này quay cuồng theo chúng sanh và chúng sanh quay cuồng theo tám điều này.
Bốn pháp làm cho người ta hài lòng ( itthārammaṇa – đối tượng khả ái, đáng ham thích) - lợi, danh, khen và hạnh phúc. Bốn pháp làm cho người ta không hài lòng (anitthārammaṇa - đối tượng không khả ái, không đáng ham thích) - thất lợi, thất danh, chê và đau khổ. Nói chung có bốn pháp thích và bốn pháp không thích. Ngay từ lúc chào đời, đứa bé đã có pháp thế gian rồi như khi thích thì nó nằm yên, khi không thích thì nó kêu khóc và tuổi càng lớn thì pháp thế gian càng tăng thêm. Bốn pháp thích và bốn pháp không thích quay cuồng con người trong sầu, bi khổ, ưu, não. Nếu không chuẩn bị trước thì khó tránh khỏi bị quay cuồng trong quỷ đạo của chúng. Một anh nọ đang thành đạt và có đủ mọi thứ, thình lình người thân yêu mất tích. Anh đau buồn và chỉ một thời gian ngắn thôi, tóc anh bạc trắng hết. Vài năm trước khi kinh tế khủng hoảng, ở Thái Lan có người nhảy lầu tự tử. Đó là ý nghĩa tùy chuyển.
Tám pháp thế gian thuộc về pháp chế định, là thế giới của chấp thủ. Nếu hiểu theo pháp chân đế thì tám pháp thế gian là sáu đối tượng - sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu đối tượng này khả ái làm duyên cho tham phát sanh. Nếu không khả ái làm duyên cho ưu phát sanh. Nhưng đối với người hiểu Pháp, chúng không trở thành pháp thế gian và thay vì tham, ưu, người này phát sanh tâm thiện hợp trí. Pháp thế gian đáng ham thích và không đáng ham thích không còn quay cuồng tâm trí và tâm trí không còn quay cuồng theo pháp thế gian khi có tâm xả, như câu Phật ngôn:
Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không động, không sầu,
Không uế nhiễm, an ổn
Là điềm lành tối thượng.
Đạt đến mức độ xả tối thượng như trên phải tròn đủ nhân duyên, nhưng điều cần thiết là phải chuẩn bị trước để có tâm xả khi đối mặt với những thăng trầm của đời sống.
Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, suy nghĩ có niệm và tỉnh giác thì không phản ứng thích với đối tượng khả ái và không thích với đối tượng không khả ái. Tâm xả này là thực tiễn trên con đường ra khỏi quỷ đạo của pháp thế gian và hiểu được pháp thế gian chỉ là những trạng thái của vô thường, không thể tìm được sự bình an lâu dài trong đó, nếu chúng thay đổi là việc dĩ nhiên. Vài tháng trước đời sống ở nước Mỹ an lạc, chỉ thời gian ngắn đã thay đổi do dịch bệnh và bạo loạn. Đó là pháp thế gian không thể tránh được. Người phật tử nên có cái nhìn đúng đắn về đời sống để không bị si mê lầm lạc khi vui, khổ đến.
-----
ĐỂ GIÓ CUỐN ĐI
TrongTăng chi bộ kinh Đức Phật nêu ra sự khác nhau giữa thái độ của kẻ phàm phu không có nghe Pháp và vị Thánh đệ tử có nghe Pháp đối với tám pháp thế gian.
Khi một trong tám pháp này sanh lên nơi kẻ phàm phu không có nghe Pháp, kẻ đó không có suy tư rằng lợi ... thất lợi… hạnh phúc … đau khổ là vô thường, khổ, biến hoại. Kẻ đó không như thực rõ biết như vậy. Không như thực rõ biết chúng xâm nhập tâm và an trú. Kẻ đó thuận ứng với một trong bốn pháp đáng ham thích và nghịch ứng với một trong bốn pháp không đáng ham thích. Kẻ đó đầy đủ thuận ứng, nghịch ứng như vậy, không có giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Kẻ đó không thoát khỏi khổ.
Khi một trong tám pháp này sanh lên nơi vị Thánh đệ tử có nghe Pháp, vị ấy có suy tư rằng lợi ... thất lợi… hạnh phúc … đau khổ là vô thường, khổ, biến hoại. Vị ấy như thực rõ biết như vậy. Như thực rõ biết chúng không xâm nhập tâm và an trú. Vị ấy không thuận ứng với một trong bốn pháp đáng ham thích và không nghịch ứng với một trong bốn pháp không đáng ham thích. Do đoạn tận thuận ứng, nghịch ứng như vậy nên vị ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Vị ấy thoát khỏi khổ.
(Giản lược kinh Tùy chuyển thế giới (2), phẩm từ, chương tám pháp).
-----
Một số bản dịch đã dịch Thánh đệ tử (ariyasāvako) là Thánh nhân đệ tử, ít nhất cũng là bậc dự lưu. Trong bài viết này Thánh đệ tử chỉ có nghĩa là đệ tử của Đức Phật. Ai có thể là Thánh đệ tử?
- Assutavā puthujjano (kẻ phàm phu không có nghe Pháp).
Đây là hạng phàm phu bị quay cuồng trong tám pháp thế gian, không có lối thoát, mù lòa về phương diện trí tuệ. Hạng này không thể là Thánh đệ tử được.
- Kalyāṇaputhujjano (phàm phu ưu tú)
Dù là phàm phu nhưng hiểu Pháp và hành trì Pháp, tâm không nô lệ tám pháp thế gian và kiên trì tu tập tùy quán tứ niệm xứ để thoát khỏi quỷ đạo của pháp thế gian. Đây là Thánh đệ tử.
- Sekho và Asekho là Thánh đệ tử
Sekho là bậc Thánh hữu học từ dự lưu đến bất lai. Dù đạt đến trình độ siêu thế. Những vị này cũng không thoát khỏi tám pháp thế gian nếu lơ là tùy quán niệm xứ. Asekho là bậc Thánh vô học - bậc A la hán hoàn toàn không xao động vì tám pháp thế gian.
Do đó, Đức Phật thuyết kinh Tùy chuyển không phải chỉ dành riêng cho bậc Thánh nhân, Ngài cũng thuyết cho phàm phu ưu tú và nếu không có phàm phu ưu tú thực hành Pháp thì cũng không có Thánh nhân. Ai không hiểu Pháp và không hành trì Pháp thì không phải là Thánh đệ tử và sẽ để cho gió đời cuốn đi.
Cổ đức có câu nói rất thâm thúy ‘Thiên hạ bản vô sự, dung nhân tự nhiễu chi’.
-Trên đời, vốn không có việc gì, chỉ có người tầm thường tự làm cho rắc rối.
Người tầm thường được hiểu tùy theo tập tục, văn hóa. Theo bài viết này, người tầm thường là kẻ vô văn phàm phu. Đối với hạng này, pháp thế gian mời gọi và đón nhận không chút đắn đo, phản tỉnh. Kết quả là gây nghiệp ác cho mình và khổ đau cho người. Đức Phật có lời dạy rằng người tu tập bốn niệm xứ bảo vệ mình, tức là bảo vệ người. Bảo vệ mình là được an tịnh, giải thoát. Bảo vệ người là có tâm từ, tâm bi, không làm điều gì hại người. Trong Tương ưng niệm xứ, Đức Phật khẳng định người có tâm giải thoát là bậc vĩ nhân và tu tập bốn niệm xứ đưa đến tâm giải thoát.
Đọc bài này quý vị thấy rõ người tầm thường sẽ để gió cuốn đi vào vòng luân hồi đau khổ và có con đường rõ ràng hướng về xuất thế gian.
oooo
Luận Về Pháp Thế Gian
Lābha
Được lợi là được những nhu cầu cần thiết trong đời sống như tiền bạc, thức ăn, quần áo, nhà cửa, xe cộ, đất đai.
Người ta cố gắng học, làm việc để có những thứ này. Có người tìm lợi hợp pháp, có người tìm lợi phi pháp. Hiểu được pháp thế gian chỉ hy vọng ở người có lợi hợp pháp. Khi có rồi phải cố gắng giữ gìn. Khi người ta đã có đủ mọi thứ, ý nghĩ về sự bền vững, bảo đảm phát sanh. Lòng tham đối với lợi phát sanh làm cho người ta lo sợ mất đi thứ đã có. Dù có nhiều nhưng ăn, ngủ không yên vì phải lo nghĩ quá nhiều về tài lợi. Dù mong muốn nó đừng thay đổi, đừng có việc gì xấu xảy ra, nhưng vì lợi là pháp thế gian, nó thuộc về bản chất vô thường nên dù mong muốn như vậy, nó sẽ vuột khỏi tay theo nhiều cách như trộm cướp, hỏa hoạn, thiên tai, bệnh tật …
Người có trí khi có tài lợi phải chuẩn bị trước bằng sự suy xét đúng Pháp rằng tài lợi là cần thiết, ta phải cố gắng giữ gìn, nhưng bởi vì nó bị chi phối bởi luật vô thường, nếu có sự tổn thất xảy ra là điều dĩ nhiên, ta không nên khổ tâm vì việc ấy.
Alābha
Mất lợi là điều mọi người không thích và mong đừng xảy ra. Nhưng không ai ngăn được bản chất vô thường của đời sống. Quá tham đắm khi được lợi sinh ra khổ. Cũng vậy, quá sầu muộn khi mất lợi sinh ra khổ. Sự hóa điên hoặc tự tử vì mất lợi là biểu hiện của tâm trạng chán nản đến cực độ.
Sự giàu nghèo không tạo ra khổ, nhưng tâm trạng dính mắc vào tham khi được lợi và dính mắc vào ưu khi mất lợi mới là khổ.
Được và mất thuộc về bản chất vô thường và cái gì vô thường là khổ và vô ngã. Dù cố giữ gìn khi vô thường đến cũng không giữ được, dù than tiếc khi đã mất cũng không sửa đổi được luật vô thường sinh diệt, cho nên cần phải giữ tâm xả khi được và mất. Tâm xả không xao động trước được, mất phải chuẩn bị trước bằng sự tu tập tâm. Đây là điều cần phải hiểu đúng về pháp thế gian.
YASA
Được danh là có danh tiếng, thanh danh, vinh dự. Yasa được định nghĩa là có nhiều người theo, được sự ủng hộ, ái mộ của những người đó. Ngày nay cũng vậy, người có danh là người nổi tiếng vì được sự hâm mộ của nhiều người. Danh đến do tài năng và cũng có danh do đức hạnh. Khi có danh quá tự hào trong vinh quang đó thì sẽ có ngày thất vọng. Chính Đức Phật tuyên bố không có đạo sư nào trong thế gian có được danh tiếng như Ngài. Nhưng cũng có những lúc Ngài cũng bị kẻ khác cố tình bôi nhọ thanh danh. Do vậy, không nên mê say trong danh vọng dù quyền cao, chức trọng hoặc tài đức hơn người vì những danh mà mình có không thể giữ mãi được, một lúc nào đó cũng sẽ mất đi do nhiều nguyên nhân. Danh càng cao thì trách nhiệm càng lớn. Nếu không đủ tài đức mà hiếu danh thì nguy hại vô cùng. Danh thường đi với lợi và sớm muộn gì cũng đưa kẻ vô trí đến sụp đổ. Người có trí thà không có danh chớ không để mất trí tuệ. Trái lại kẻ vô trí chỉ cần danh không cần trí.
Người có danh, ít trí
Người có trí, không danh.
Không danh nhưng có trí,
Hơn ít trí, có danh.
-Trưởng lão Tăng kệ 667
Danh của bậc trí do tài đức thực sự mà có nên các ngài không cần phải dựa vào hậu thuẫn của kẻ khác và các ngài sống rất khiêm tốn, không tự tôn vì có danh. Khi được trọng vọng không mê chấp thì khi bị khinh thường cũng không bất mãn,vì hiểu danh đúng theo pháp nên danh của các ngài càng tăng trưởng như trăng thượng huyền. Trái lại kẻ vô trí cầu người khác ban danh cho mình nên là kẻ chạy theo danh và sống phi pháp, kết cuộc càng ham danh thì danh càng lu mờ như trăng hạ huyền.
AYASA
Mất danh là mất thanh danh, không có người hâm mộ và bị khinh rẻ. Đối với người hiểu Phật Pháp, khi có danh được trọng không tự tôn thì khi mất danh bị khinh không tự ti. Người hiểu đúng pháp thì việc có danh, mất danh, khinh, trọng nên suy xét đó là pháp thế gian do những yếu tố bên ngoài cấu thành, đó là quy luật của đời sống không sao tránh khỏi thay đổi, chuyển biến,
Người ở địa vị cao được trọng vọng và nghịch cảnh xảy ra làm cho người này không giữ được vị thế đó và mất danh sẽ đến. Nếu không chuẩn bị trước thì cũng sẽ đau buồn như mất lợi. có người trọng danh còn hơn cả lợi thì càng khổ tâm nhiều hơn. Do đó, khi mất danh cần phải hiểu rằng nếu mình sống đúng pháp thì có gì phải buồn khổ khi bị khinh thường vì những kẻ khinh thường đó không phải là bậc có trí.
Danh và mất danh là pháp thế gian, nó luôn thay đổi, không nên chạy theo nó, điều cần làm là giữ tâm bình thản không tham đắm khi có danh, cũng không chán ghét khi mất danh. Bỏ được lòng tự tôn và tự ti trước thế pháp danh và mất danh là đi một bước dài trong việc phát triển nội tâm.
Pasaṃsā
Khen ngợi là pháp thế gian làm cho người ta thích thú. Đôi khi lời khen đó không thực chút nào nhưng người ta vẫn thích. Lịch sử đông tây đều có những vua chúa giết hại công thần vì thích nghe những lời nịnh bợ. Ai phân biệt được lời khen thành thực và lời khen giả tạo sẽ tránh được sai lầm. Được khen vì mình xứng đáng thì nên nhận với tâm khiêm tốn không quá ham thích theo lời khen. Nếu mình không xứng đáng thì không nên nhận. Nếu biết lời khen không thực vẫn nhận một cách thích thú thì thiếu lòng tự trọng và không có pháp tàm, quý. Sự ham thích khen ngợi sẽ tạo ra Agati (pháp thiên vị), thích người khen mình và cho là người tốt, bất kể kẻ đó thiếu tài đức. Ghét người chê mình và cho là người xấu, bất kể người đó đủ tài đức. Hệ quả tai hại do người có pháp thiên vị gây ra không lường được. Địa vị càng cao thì tai hại cho mọi người càng lớn. Những lời khen ngợi đến với mình từ bên ngoài, không nên coi trọng và biến chúng thành pháp thế gian độc hại gây nên tai hại cho mình và cho người. Nên nhớ kẻ thích khen chỉ là công cụ cho kẻ nịnh hót sai khiến và lợi dụng.
Ham thích khi được khen dù lời khen có phần quá đáng, đây là bản tính nơi người không tu tập tâm. Người ta thích khen vì tâm thích đó vượt tầm kiểm soát, nó xảy ra một cách vô thức, nghĩa là do không có niệm nên mới phát sinh tâm thích như vậy. Muốn có một tâm nhận định sáng suốt khi được khen cần phải kiểm soát tâm bằng cách ý thức tâm trạng của mình lúc đó. Đây là có niệm và thích khen nếu có xảy ra cũng dưới dạng ý thức. Khen đó không còn đủ sức lôi cuốn tâm trí hành động mê muội, mù quáng. Người có niệm nhận định pháp thế gian khen ngợi là vô thường nên khi chúng sinh diệt không có chấp thủ.
Câu chuyện
Vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) dù thường đến nghe Đức Phật thuyết Pháp cũng không thoát khỏi pháp thế gian này. Đại tướng Bandhula là bạn học của vua, một người rất có tài, giúp cho ngai vàng được vững chắc. Vì nghe theo những lời nịnh bợ vua giết vị đại tướng cùng các người con trai dũng cảm của vị tướng này. Cuối cùng rồi không còn người tốt bảo vệ, vua bị truất phế và chết trong cô đơn.
Nindā
Chê bai là pháp thế gian làm cho người ta không thích, muốn lẫn trốn. Nếu cảm thấy khó chịu khi có ai chê bai chút ít là vì đặt lòng tự ái lên trên lẽ phải. Có gì phải bấn loại tâm trí, bủn rủn tay chân khi bị chê. Phải đương đầu với mọi tình huống chê bai để nhận định sáng suốt lời chê có đúng hay không? Mình thực sự có lỗi hay không? Nếu mình có lỗi thì nhận lời chê đó với tâm cải hối. Nếu mình bị oan ức thì không nhận và giải thích cho rõ vấn đề của mình. Dù mình có lỗi hoặc không có lỗi, khi bị chê nổi sân lên, có ác cảm với kẻ chê trách mình và đáp trả khi có dịp. Xử sự như vậy sẽ bị pháp thế gian lôi cuốn và tạo ra nghiệp bất thiện. Tâm trạng đó thường phản ánh trong cuộc sống qua những cuộc ẩu đả, chém giết, thanh toán.
Một ông Bà la môn tên Akkosaka đến Trúc Lâm thuộc thành Vương xá gặp Đức Phật và tuôn ra những lời ác ngữ, phỉ báng, nhiếc mắng Ngài. Đức Phật hỏi ‘Khi có khách đến viếng thăm và ông chuẩn bị bữa ăn để đón tiếp. Nếu họ không nhận thì món ăn thuộc về ai? Ông Bà la môn đáp ‘Dĩ nhiên thuộc về chúng tôi’. Ngay lúc đó Đức Phật cho biết ‘Nay ông tuôn ra những lời ác ngữ, phỉ báng, nhiếc mắng và chúng tôi không nhận lấy nên những lời ấy thuộc về ông, chúng trở về với ông’. Nhẹ nhàng và dứt khoát thay là ứng xử của đấng giác ngộ!
Theo nghĩa thông thường dư luận là số đông người, bị dư luận chê bai là điều mà đa số không thể chịu nổi. Nhưng theo Phật giáo dư luận không phải là số đông người mà chính là tiếng nói của những bậc có trí tuệ. Cho nên người hiểu Phật Pháp cảm thấy dửng dưng khi bị những kẻ vô trí chê bai vì không có chút gì chân chánh trong đó. Trái lại khi bị cá nhân hoặc nhiều bậc có trí tuệ chê trách thì không dám coi thường, cảm thấy lo sợ vì một khi bậc có trí chê trách thì chắc chắn mình làm sai rồi, phải cố gắng sửa đổi ngay. Thích khi được khen gây đau khổ cho mình và cho người vì để cho lòng tham muốn thấp hèn sai khiến. Không thích khi bị chê cũng gây nguy hại cho mình và cho người lâu dài vì để cho sân hận, ác tâm sai khiến. Cho nên khi bị chê bai phải bình tỉnh, sáng suốt suy xét rằng nếu mình đúng mà vẫn bị chê bai thì hoặc là người tâm không tu tập có thói quen tìm lỗi người khác và che dấu lỗi của chính họ, nếu hạng này chê bai thì không nên bận tâm. Hoặc là do người có tính ganh ghét, mình cũng không bận tâm vì họ cũng thuộc loại vô trí. Ngoài ra, cũng nên suy xét về nghiệp xấu của mình, pháp thế gian này đến từ bên ngoài và cũng có trường hợp đến từ nghiệp xấu quá khứ và nghiệp xấu hiện tại tạo nên pháp nghịch duyên là chê bai. Cách hóa giải là phải tinh tấn tu tập thiện pháp nhiều hơn.
Theo lối mòn xưa cũ là sống với tâm sợ hải bị chê bai, nuôi dưỡng ác tâm và hận thù vì bị chê bai. Đây là tâm tính hoạt động vô ý thức do tâm không có tu tập. Trạng thái vô ý thức đồng nghĩa với không có niệm. Nếu có ý thức là có niệm và khi nghe lời chê bai sẽ không bị lôi cuốn vào sự khó chịu, bực tức, nổi giận như trước đây. Bởi vì người có niệm không hoang phí thời gian vào những lời chê bai mà nhìn thẳng vào nội tâm để xem xét phản ứng của nó, không để cho nó tự do thất niệm như trước. Người có niệm nhận định pháp thế gian chê bai là vô thường nên khi chúng đến và đi là tự nhiên, không có gì phải chấp thủ.
Sukha
Hạnh phúc là cặp cuối của pháp thế gian mà phần đông mọi người thích có. Hạnh phúc là cảm giác, kinh nghiệm thỏa thích khi người ta có những điều mong muốn. Có hai loại hạnh phúc - hạnh phúc về phương diện vật chất và hạnh phúc về phương diện tinh thần. Khi người ta có đủ mọi thứ trong đời sống thì hạnh phúc phát sanh và sầu muộn nơi tâm cũng nối tiếp theo. Bởi vì sự thỏa thích vào hạnh phúc đang có khiến người ta lo sợ nó mất đi, vì vậy sinh ra sầu muộn và càng sầu muộn hơn nữa khi vô thường đến cướp đi hạnh phúc của họ. Dù cho chư thiên hạnh phúc hơn loài người họ cũng không tránh khỏi khổ tâm vì lửa tham ái luôn luôn thiêu đốt tâm của họ. Hạnh phúc thuộc về thọ lạc và luôn luôn thay đổi. Không hiểu bản chất vô thường của hạnh phúc, người ta ham muốn, dính mắc với hạnh phúc và không tránh khỏi khổ vì không bao giờ được trọn vẹn trong thế giới vô thường. Làm sao trọn vẹn được, hôm nay đang cảm thấy hạnh phúc, nhưng ngày mai nhức đầu, đau bụng thì có còn hạnh phúc như hôm qua nữa không? Không có gì báo trước đời sống sắp đến của mình thay đổi như thế nào nên khi hưởng hạnh phúc phải có ý thức hiểu biết hạnh phúc này mong manh, không nên tham đắm, dính mắc. Đây là cách quán sát, quán tưởng theo Pháp và sẽ giúp cho chúng ta giữ được tâm xả khi vô thường đến.
Ví như một làn gió nhẹ làm rơi rụng những chiếc lá, tâm cũng dễ bị lung lạc khi hạnh phúc đang có và mất đi, vì không có sự chuẩn bị trước bằng sự tu tập tâm xả. Do đó phải thường xuyên quán sát về sự vô thường của các loại hạnh phúc để đủ sức đối diện với thực tại đang diễn ra. Mê mãi, chìm đắm trong hạnh phúc đang có về tài sản, sắc đẹp, tuổi trẻ, sức khỏe, thành đạt và để thời gian trôi qua lãng quên việc tạo phước đức đến khi những thứ đó mất đi sẽ kéo theo sự sầu muộn ngay trong đời này và đời sau càng sầu muộn hơn vì không có phước bảo vệ. Thực chất của hạnh phúc làm cho người ta thỏa thích ví như người đang có bệnh gãi ngứa, mỗi khi gãi tạo ra vọng tưởng khoái cảm, nhưng càng gãi thì càng gây ra những vết xước trên da và khổ vì bệnh càng tăng thêm.
Đối với người chưa hiểu Phật Pháp thì hạnh phúc lớn nhất trong đời sống là thụ hưởng mọi thứ hạnh phúc. Còn người hiểu Phật Pháp thì hạnh phúc lớn nhất là không nô lệ lòng tham ái khi đang có hạnh phúc.
Dukkha
Đau khổ là cặp pháp thế gian cuối cùng làm cho người ta không thích, làm mọi cách để xa lánh, lẫn trốn và nếu phải đối đầu thì chỉ có thất vọng, tuyệt vọng. Sự không thích khổ, sợ hải khổ là biểu hiện của tâm sân. Nhưng dù cố tránh né cũng không thoát được vì đời sống luôn luôn thay đổi, bất hạnh có thể đến với chúng ta do nhiều nguyên nhân. Nếu không giữ được tâm khi đau khổ đến thì sự chán nản, tuyệt vọng sẽ gia tăng. Cái khổ thân như đói, khát, bệnh tật còn nhẹ hơn cái khổ tâm. Chính sự sầu muộn, ưu bi khi đối diện với đau khổ là điều đáng lưu ý trong pháp thế gian này. Trong lý duyên khởi, thọ duyên ái. Nghĩa là thọ làm điều kiện cho ái phát sinh. Thọ lạc liên quan với hạnh phúc và ái phát sanh. Thọ khổ liên quan với đau khổ cũng duyên ái, có nghĩa là khi đau khổ người ta khao khát hạnh phúc, mong muốn mạnh mẽ thoát khỏi trạng thái khổ đang có. Thọ lạc thoáng qua rất nhanh, cho nên hạnh phúc và đau khổ luôn liền kề và sát cánh nhau. Lửa tham ái bao trùm cả tham, ưu và nung nấu tâm trí yếu kém. Có người cho rằng chấp thủ chỉ xảy ra với đối tượng đáng ham thích (tham), thực ra thủ cũng xảy ra với đối tượng không đáng ham thích (sân) như trường hợp tức giận ai, lúc đó tâm trí cứ nghĩ mãi về người đó và càng nghĩ càng bực bội, càng phiền muộn. Chỉ có cách thoát khỏi tâm trạng đó là dứt bỏ nó, không bám bíu vào nó, dù là với người hoặc vật không khả ái và giữ tâm xả khi đối diện với đau khổ.
Cô nữ sinh nọ có đủ mọi thứ và có nhiều hoài bão tươi đẹp. Bất ngờ tai nạn giao thông xảy ra, khi tỉnh dậy trong bệnh viện nhận thức đầu tiên là một chân của cô đã mất vĩnh viễn. Nếu cô chưa chuẩn bị trước bằng tâm xả trước vui khổ thì sự đau khổ trở thành nổi thống khổ cả thân lẫn tâm. Làm thế nào để giữ được tâm xả trước đau khổ? Không thể đơn thuần dùng những ý nghĩ để khắc phục hoàn cảnh bất hạnh hoặc tai họa. Dĩ nhiên ý nghĩ đúng đắn cũng trợ giúp một phần nào trước nổi khổ. Nhưng đối với cái khổ quá lớn như kinh nghiệm của cô nữ sinh kia, như căn bệnh hành hạ đau đớn, như mất tất cả tài sản, như việc vĩnh biệt người thân yêu thì phải có ý thức về cái khổ chỉ là cảm thọ vô thường, có khổ nhưng không có người thọ khổ, đó chỉ là khổ uẩn nếu chấp vào. Trong trường hợp này chỉ có khổ thân, nhưng không có khổ tâm. Dù nổi khổ không thể chịu đựng được cũng không làm cho người này ưu bi vì cái khổ, không để cho tâm trạng bực tức, chán nản chi phối tâm. Trong đau khổ vẫn tìm thấy sự bình an. Ý thức này được Đức Phật chỉ dạy trong việc thực hành tứ niệm xứ.
Đau khổ là pháp thế gian xuất hiện nhiều nhất. Muốn biết ai là người hiểu đau khổ và thuộc hàng thiện trí, hãy nhìn thái độ của người đó khi đối diện với khổ trong đời sống.
Câu chuyện
Patācārā sinh trưởng trong gia đình quý tộc giàu có ở Xá Vệ. Bà trốn cha mẹ để đi chung sống với người đầy tớ.
Khi sắp sinh con, bà muốn trở về nhà cha mẹ để có người săn sóc, nhưng người chồng sợ bị trừng phạt nên cứ làm lơ, cuối cùng bà đi một mình. Người chồng đuổi theo và bà sinh con giữa đường. Người vợ bỏ ý định về nhà cha mẹ. Lần thứ hai sắp sinh con, bà lại đi về nhà cha mẹ, người chồng đuổi theo, bà lại sinh con giữa đường. Mưa to kéo đến, người chồng tìm cây lá để che cho vợ con thì bị con rắn cắn chết.Trọn đêm hứng cơn mưa to để che cho hai đứa con và sáng ra tìm thấy chồng nằm chết bên gò mối. Than khóc chồng suốt đêm rồi bà quyết định tìm nương tựa nơi cha mẹ. Mưa lớn, nước sông dâng lên bà để đứa lớn trên bờ và ẵm đứa nhỏ lội qua sông rồi quay lại để đem đứa lớn qua. Ra giữa sông, một con quạ đến tha đứa nhỏ đi, bà giơ tay, la hét đuổi con quạ nhưng quá xa không làm gì được. Đứa lớn tưởng mẹ gọi, nó lội xuống sông và bị nước cuốn đi. Cực kỳ đau khổ bà cô thân đi về nhà cha mẹ. Đến nơi, được tin mưa giông kéo sụp căn nhà và cha mẹ nàng đã chết vừa hỏa táng xong. Thế là hết chịu đựng nổi, bà hóa điên, quần áo xốc xếch, tơi tả đi khắp nơi than khóc.
Đức Phật nhận thấy bà có thiện duyên nên ngăn cản mọi người xua đuổi bà và khi bà được dẫn đến Đức Phật ở Jetavana, nghe Phật ngôn:
Nước bốn biển ít hơn,
Nước mắt của loài Người,
Khóc than vì đau khổ,
Vậy sao nàng hủy hoại,
Sanh mạng của chính mình,
Trong khóc than sầu khổ!
Và dạy thêm Pháp nghĩa, bà chứng quả dự lưu, xin xuất gia .
Một hôm tỳ kheo ni Patācārā rửa chân nhận thấy sự sinh diệt của dòng nước giống như của dòng đời. Bậc Đạo sư xuất hiện dạy rằng:
Người sống một trăm năm,
Không thấy pháp sanh diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp sanh diệt.
Nghe xong bà chứng quả A la hán.
(Giản lược Trưởng lão ni kệ 134)
Bể khổ mênh mông sóng ngập trời !
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi.
Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,
Ngẫm lại cùng trong bể khổ thôi!
-----
Bài thơ BỂ THẢM của Đoàn Như Khuê sáng tác năm 1917, bài thơ khá dài, bốn câu đầu trích ở trên cô đọng trọn vẹn phần còn lại. Nguyên văn là:
Bể thảm mênh mông sóng lụt trời!
Khách trần chèo một lá thuyền chơi.
Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,
Coi lại cùng trong bể thảm thôi!
Chư Tăng Ni đã sửa lại vài từ để lời văn thêm óng ả. Quý phật tử nên áp dụng vào bài học Tám pháp thế gian để dễ nhớ.
Bài viết năm 2020 khác
- Trí nhớ tốt Tỳ kheo Giác Lộc
- Thương mình Tỳ kheo Giác Lộc
- Thiên tử Tỳ kheo Giác Lộc
- Thấy Pháp Tỳ kheo Giác Lộc
- Thánh đệ tử Tỳ kheo Giác Lộc
- Rừng vọng tưởng Tỳ kheo Giác Lộc
- Pháp Phi Pháp Tỳ kheo Giác Lộc
- Phân tích niệm xứ Tỳ kheo Giác Lộc
- Năm tháng Pali Tỳ kheo Giác Lộc
- Kiếm đạo Tỳ kheo Giác Lộc
- Không lầm người Tỳ kheo Giác Lộc
- Học và Hành Tỳ kheo Giác Lộc
- Học Ít Học Nhiều Tỳ kheo Giác Lộc
- Duyên vô duyên Tỳ kheo Giác Lộc
- Dự lưu hướng chi Tỳ kheo Giác Lộc
- Đời sống trí tuệ Tỳ kheo Giác Lộc
- Điều độ Tỳ kheo Giác Lộc
- Chuyện tái sinh Tỳ kheo Giác Lộc
- Tiếng chuông chùa Tỳ kheo Giác Lộc
- Bài viết chủ nhật Tỳ kheo Giác Lộc
- Chánh Pháp hộ trì Tỳ kheo Giác Lộc
- Chân hạnh phúc Tỳ kheo Giác Lộc
- Chuyện thiền Tỳ kheo Giác Lộc
- Cách soi gương Tỳ kheo Giác Lộc
- Hiểu Phật Pháp Tỳ kheo Giác Lộc.
- Bốn loại thức ăn Tỳ kheo Giác Lộc
- Biết bệnh Tỳ kheo Giác Lộc.
- Biên kiến Tỳ kheo Giác Lộc
- Đắc nhân tâm Tỳ kheo Giác Lộc