Phân tích niệm xứ Tỳ kheo Giác Lộc

09/12/2021 - 08:48   425

40. X. Phân Biệt (S.v,183) - Tương ưng bộ kinh
1)...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông về niệm xứ, tu tập bốn niệm xứ và đạo lộ đưa đến tu tập bốn niệm xứ. Hãy lắng nghe.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là niệm xứ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các cảm thọ... trú, quán tâm trên tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là niệm xứ.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tu tập bốn niệm xứ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, quán tánh tập khởi trên thân; trú, quán tánh đoạn diệt trên thân; trú, quán tánh tập khởi và tánh đoạn diệt trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vị ấy trú, quán tánh tập khởi trên các cảm thọ; trú, quán tánh đoạn diệt trên các cảm thọ; trú, quán tánh tập khởi và tánh đoạn diệt trên các cảm thọ... trú, quán tánh tập khởi trên tâm... trú, quán tánh tập khởi trên các pháp; trú, quán tánh đoạn diệt trên các pháp; trú, quán tánh tập khởi và tánh đoạn diệt trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự tu tập bốn niệm xứ.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là đạo lộ đưa đến sự tu tập bốn niệm xứ? Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến... chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo lộ đưa đến tu tập bốn niệm xứ.
-----
Phần 2: Tìm hiểu kinh phân tích Niệm xứ

-Tại sao Tứ niệm xứ rút ngắn như trên lại có tựa là ‘Kinh phân tích’ ?

-Khác nhau giữa kinh niệm xứ dài trong trung bộ và trường bộ với kinh này là gì?

- Kinh này mở ra con đường tu tập niệm xứ toàn diện, tai sao ?

Tìm hiểu kinh phân tích niệm xứ
&
Quán thân trên thân (kāye kāyānupassī)
Quán thọ trên các cảm thọ (vedanāsu vedanānupassī)
Quán tâm trên tâm (citte cittānupassī)
Quán pháp trên các pháp (dhammesu dhammānupassī)

Anupassī - anu – là lập đi lập lại, thường xuyên, passī là thấy, biết rõ) tùy quán. Tùy quán là quan sát thường xuyên. Tùy quán thân trên thân là quan sát thường xuyên, không xao lãng thân như thực. Thấy thân đúng như thực tướng của thân. Thọ, tâm, pháp cũng tùy quán vào thực tướng như thế.
Tu tập mỗi niệm xứ theo ba phần:
Tùy quán tánh tập khởi, tùy quán tánh đoạn diệt, tùy quán tánh tập khởi và tánh đoạn diệt
Tánh tập khởi là bản chất sinh. Tánh đoạn diệt là bản chất diệt. Bản chất Dhamma đồng nghĩa với dhamma của pháp niệm xứ, nghĩa là bản chất chân đế, thực tại, khác với chế định, khái niệm.
Tánh sinh diệt chỉ có ở chân đế hữu vi, chế định không có tánh sinh diệt. Tu tập niệm xứ là tùy quán tánh sinh diệt nơi pháp chân đế là thân, thọ, tâm, pháp. Không tùy quán chế định, vì chế định không có, không hiện hữu làm sao tùy quán được. Cái nhà là chế định, không thực có, chỉ là khái niệm do tâm trí tạo nên. Người nam, người nữ là chế định không thực có theo chân đế. Chấp vào chế định là chấp vào tướng thường còn. Cái nhà, nam, nữ đó hôm nay, ngày mai cũng là như vậy, không thay đổi. Cái nhà, người nam, nữ là tập hợp của những sắc pháp, danh pháp, khi tùy quán chỉ quan sát sắc và danh, không quan sát cái bóng của sắc, danh. Nếu thấy thực có cái nhà, nam, nữ thì không thấy pháp sinh diệt và vô minh có mặt. Nếu thấy cái nhà, nam, nữ đó là sắc, là thấy pháp sinh diệt và minh, trí tuệ xuất hiện.
Tùy quán tánh tập khởi trên thân
Thân niệm xứ áp dụng cho phần sắc uẩn. Bất cứ phần nào liên quan đến thân trong, ngoài đều thuộc về sắc uẩn. Mắt tai, mũi, lưỡi, thân – thuộc sắc uẩn. Sắc, thinh, hương, vị, xúc - thuộc sắc uẩn. Khi tùy quán thân. Nếu niệm yếu thì những gì được thấy, được nghe sẽ có ý niệm về hình thể chế định như người, vật, nhà cửa, xe cộ. .. và có cái ngã tham, sân xen vào, do hiểu sai. Nếu niệm mạnh thì các sắc pháp là đối tượng của tâm chỉ là sắc uẩn , không xen vào ý niệm chế định và niệm sẽ giúp trí tuệ tùy quán tánh sinh khởi của sắc uẩn. Niệm giúp tuệ biết rõ tánh sinh khởi của sắc uẩn .
Tùy quán tánh đoạn diệt trên thân.
Niệm giúp tuệ biết rõ tánh sinh khởi của sắc . Khi sắc diệt biết rõ tánh diệt của sắc uẩn. Do niệm yếu, chế định xen vào, nhận thấy có thân ta, thân người, nhưng sau đó có niệm thì ý niệm sai lầm không còn nữa, niệm về sắc sinh khởi biết rõ, khi sắc diệt biết rõ. Đây là thân niệm xứ áp dụng trong bất cứ trường hợp liên quan đến thân thuộc về sắc uẩn như đại oai nghi, tiểu oai nghi. Niệm loại bỏ ý niệm về những chế định và ý thức về sự hiện diện của sắc uẩn để giúp trí tuệ biết rõ tánh sinh, tánh diệt của nó. Khi mắt tiếp xúc với cảnh sắc , nhãn thức sinh. Theo chế định thì vẫn là cái thấy đó, vẫn là cảnh sắc đó. Nhưng theo chân đế thì mắt đó, cảnh sắc đó sinh, diệt rất nhanh, ngay khi tâm bắt cảnh.

- Tùy quán tánh tập khởi trên các thọ.
- Tùy quán tánh đoạn diệt trên các thọ
Bất cứ cảm thọ, cảm giác gì vui, khổ, không khổ không vui phát sanh thì ý niệm tôi vui, tôi khổ, tôi không khổ không vui cũng xuất hiện. Ý niệm về ai đó cảm thọ và cảm thọ đó không thay đổi thuộc về chế định, là khái niệm do chấp sai tạo ra. Lúc đó không biết rõ tánh sinh khởi của thọ và sẽ có vô minh. Khi có niệm thì ý niệm chấp vào chế định diệt và trí tuệ tùy quán các thọ, thuộc về thọ uẩn, là pháp chơn đế biết rõ tánh sinh khi các thọ sinh và biết rõ tánh diệt khi các thọ diệt. Minh, trí tuệ phát sanh khi tùy quán tánh sinh trên các thọ, tùy quán tánh diệt trên các thọ. Tham, sân, si, ngã kiến, ngã tưởng không xen vào khi biết rõ tánh sinh, diệt. Sống quán tánh sinh khởi trên các thọ, sống quán tánh diệt trên các thọ. Ý nghĩa kinh văn rất rõ ràng.

- Tùy quán tánh tập khởi trên tâm
- Tùy quán tánh đoạn diệt trên tâm
Khi các tâm khởi lên, tham, sân, si, vô tham, vô sân, vô si, tâm loạn, tâm định, tâm không giải thoát, tâm giải thoát. Từng mức độ của người không tu tập, cho đến người có tu tập vẫn có ý niệm về một cái ngã đang kinh nghiệm trạng thái tâm đó. Khi đó sẽ có chế định, khái niệm về một cái ngã và tham đó hoặc vô tham đó … là cái gì của cái ngã, chúng sẽ là pháp thường còn dù hôm nay, ngày mai, và kéo dài mãi trong tâm trí ngã chấp. Lúc đó vô minh xuất hiện vì tánh sinh, diệt của tâm không được biết rõ. Khi niệm được tu tập ý niệm về ngã và cái của ngã không tồn tại, trí tuệ sẽ tùy quán tâm đúng theo thực tướng của tâm, thuộc về thức uẩn, dù tâm gì sinh lên, tùy quán, biết rõ tánh sinh, tâm diệt, biết rõ tánh diệt. Lúc đó, không có vô minh và minh, trí tuệ xuất hiện.

- Tùy quán tánh tập khởi trên các pháp
- Tùy quán tánh đoạn diệt trên các pháp
Pháp có nghĩa là bản chất chơn đế, thực tại của các sự vật danh, sắc hữu vi.
Phần tùy quán pháp nói riêng là chú ý vào tưởng uẩn và hành uẩn vì chúng nổi bật trong việc tạo ra các pháp. Nếu nói chung thì bao gồm năm thủ uẩn, 12 xứ, các pháp bất thiện, các pháp thiện.
Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, có sáu thức thì ý niệm về cái tôi thấy, tôi nghe, tôi nhận thức khởi lên. Đây là chấp vào chế đinh liên quan đến các pháp. Nếu các pháp bất thiện sinh lên cũng rơi vào ngã chấp như tôi dục tham, tôi hôn trầm. Nếu thiện pháp sinh lên cũng rơi vào ngã chấp tôi đang niệm, tôi đang có hỷ, khinh an … Ý niệm ngã chấp sẽ có ngã tưởng, ngã kiến khi các căn gặp các cảnh và tham, sân sinh lên, lúc đó năm thủ uẩn cũng sinh lên và vô minh ngự trị vì chấp vào tướng thường còn nơi các pháp . Phần tùy quán pháp khi tu tập phải luôn luôn có niệm kịp thời để ý niệm chế định không xen vào. Phật ngôn diễn tả rất rõ :
Hỡi này A-ji-ta,
Các dòng nước ở đời,
Chánh niệm ngăn chận lại,
Chánh niệm được Ta gọi,
Chế ngự các dòng nước,
Và chính do trí tuệ,
Ðóng lại các dòng nước. ( Suttanipāta . 1035)

Như vậy khi tuỳ quán quán đúng thực tướng chơn đế các pháp liền thấy rõ tánh sinh của các pháp khi sinh và thấy rõ tánh diệt khi diệt. Lúc đó vô minh không hiện diện. Minh, trí tuệ có mặt và sự giải thoát tìm thấy ngay trước mắt.
---
Phần 2:
Định nghĩa niệm, quán tánh sinh diệt, con đường tu tập niệm xứ.

BA LOẠI TƯỚNG

Người tu tập bốn niệm xứ cần phải biết ba loại tướng trong bài viết này.
Trong một buổi tiệc như tiệc cưới có nhiều người nam, nữ tham dự. Tiếng nói cười, âm nhạc đủ loại. Theo quan niệm chung, lúc đó thấy và nghe cùng lúc, vừa thấy vừa nghe. Nếu có suy nghĩ cũng xảy ra đồng thời với nghe, thấy. Thực ra khi thấy thì không có nghe, tâm này sinh diệt rồi mới đến tâm khác. Khi suy nghĩ thì cũng không có thấy, nghe xen vào. Cách hiểu xảy ra đồng thời vì chỉ hiểu qua chế định. Nếu hiểu đúng ba loại tướng thì quan niệm sai lầm như thế không còn nữa. Tâm sinh diệt rất nhanh, bắt từ cảnh này qua cảnh khác, khi niệm xứ vững chắc sẽ hiểu các pháp theo thực tướng chớ không hiểu theo vẻ ngoài như tâm không có tu tập.

Ba tướng cần phải biết trong tu tập niệm xứ: Sabhāva lakkhaṇa (thực tướng), saṅkhata lakkhaṇa (hữu vi tướng), samañña lakkhaṇa (phổ biến tướng).
Sabhāva lakkhaṇa (thực tướng). Là những tướng riêng biệt của những hiện tượng danh sắc. Như địa đại (paṭhavī dhātu), nguyên tố đất, có tướng cứng, mềm, hoặc sự duỗi ra.
Thủy đại (āpo dhātu), nguyên tố nước, có tướng dính liền.
Hỏa đại (tejo dhātu), nguyên tố lửa, có tướng nóng, lạnh.
Phong đại (vāyo dhātu), nguyên tố gió,có tướng di động.
Tướng riêng của tâm là biết cảnh. Tướng của xúc là chạm cảnh. Tướng của thọ là cảm thọ, kinh nghiệm cảnh . Tướng của tưởng là nhớ lại do liên tưởng.

Theo chế định gọi là cái cây, cái nhà. Theo chân đế không có cái cây, cái nhà. Cây và nhà là những thành phần do tứ đại cấu tạo nên. Cũng vậy, người theo chế định thì được chấp nhận, nhưng theo chân đế thì không tìm thấy người, chỉ có những thực tướng như sắc tứ đại, sắc y sinh, tâm, tâm sở.
Saṅkhata lakkhaṇa (tướng hữu vi): Mỗi tướng riêng biệt (thực tướng) của tất cả hiện tượng tâm, vật lý có đầu, giữa, cuối. Tức là uppāda (sinh), ṭhiti (trụ) và bhaṅga (diệt).
Uppāda, sinh, là bắt đầu hoặc sự phát sanh của một hiện tượng.
Thiti, trụ không phải là dừng lại, đây là sự diễn tiến về phía diệt.
Bhaṅga là diệt. Sinh, trụ, diệt là ba khía cạnh của tướng hữu vi.
Samañña lakkhaṇa (phổ biến tướng): Tướng thứ ba của tất cả hiện tượng tâm, vật lý là tướng chung, phổ biến.Gọi như vậy vì có mặt cùng khắp hiện tượng danh, sắc.
Ba tướng này là anicca lakkhaṇa (vô thường tướng), dukkha lakkhaṇa (khổ tướng), anattā lakkhaṇa (vô ngã tướng). Những tướng này là chung, phổ biến cho tất cả hiện tượng danh, sắc.
Khi tu tập niệm xứ, sự chú niệm trên hiện tượng danh, sắc từ khi phát sinh cho đến khi diệt sẽ thấy, biết thực tướng (sabhāva lakkhaṇa) và ngăn lại những tưởng chế định. Bất cứ hiện tượng danh, sắc nào phát sanh cũng phải chú niệm chặt chẽ thì thực tướng mới hiển lộ.

Khi thực tướng được thấy, biết thì tướng hữu vi sẽ hiện rõ ra. Tướng sinh, trụ, diệt của danh, sắc sẽ được thấy, biết.
Khi tướng hữu vi được thấy, biết thì tướng chung cũng được thấy, biết. Tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã chỉ phát sinh khi tướng hữu vi được hiểu rõ. Khi tướng chung được hiểu rõ thì vipassanā ñāṇa (trí thiền quán) xuất hiện và con đường giải thoát rộng mở.
------
Bài này dùng kèm bài viết: ‘Tìm hiểu kinh phân tích niệm xứ’

Bài này vô cùng thâm thúy, là lời dạy cốt lõi của Đức Phật vì giúp cho người học kinh niệm xứ hiểu ra những vấn đề mà từ lâu còn nghi vấn về sự tu tập niệm xứ. Quý vị hãy tìm hiểu và gìn giữ để đọc lại mỗi khi gặp trở ngại.
------
Tương ưng bộ kinh

117. IV. Thế Giới Dục Công Ðức (S.iv,97)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, trước khi Ta chưa giác ngộ, chưa thành Chánh đẳng Chánh giác, còn là Bồ-tát, Ta khởi lên ý nghĩ như sau: "Năm dục công đức mà tâm Ta trước kia cảm xúc, đã thuộc quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại; ở đây, tâm Ta đi đến cuồng nhiệt khi chúng có mặt hiện tại, và trở thành giảm thiểu khi chúng chưa đến, còn ở vị lai". Rồi, này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Năm dục công đức mà tâm Ta trước kia cảm xúc, đã thuộc quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại. Ở đây, vì lợi ích cho chính Ta, hãy sống không phóng dật, gìn giữ tâm chánh niệm".
3) Do vậy, này các Tỷ-kheo, đối với năm dục công đức mà tâm các Ông trước đây cảm xúc, đã thuộc quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại; ở đây, tâm các Ông đi đến cuồng nhiệt khi chúng có mặt hiện tại, và trở thành giảm thiểu khi chúng chưa đến, còn ở vị lai. Do vậy, này các Tỷ-kheo, đối với năm dục công đức mà tâm các Ông trước đây cảm xúc, đã thuộc quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại. Ở đây, vì lợi ích cho chính các Ông, hãy sống không phóng dật, gìn giữ tâm chánh niệm.
4) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các xứ cần phải được hiểu: "Chỗ nào mắt đoạn diệt, sắc tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu... Chỗ nào ý được đoạn diệt, pháp tưởng được ly tham, các xứ cần phải được hiểu". Các xứ cần phải được hiểu như vậy.
5) Nói vậy xong, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh xá.
6) Rồi các Tỷ-kheo, sau khi Thế Tôn ra đi chẳng bao lâu, khởi lên ý nghĩ sau đây: "Này chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói lên lời thuyết giảng này một cách vắn tắt... Ai có thể phân tích ý nghĩa lời tuyên bố một cách rộng rãi?"
7) Rồi các Tỷ-kheo ấy lại suy nghĩ như sau: "Tôn giả Ananda được Thế Tôn tán thán.."..
8-11) (Như kinh trên, từ số 5 đến số 9, chỉ khác về lời tuyên bố của Thế Tôn)
12) -- Vậy chư Hiền, hãy lắng và suy nghiệm kỹ. Tôi sẽ nói.
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ananda.
13) Tôn giả Ananda nói như sau:
-- Này chư Hiền, sau khi nói lên lời thuyết giảng vắn tắt này, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tịnh xá: "Do vậy, này các Tỷ-kheo, các xứ cần phải được hiểu: ‘Chỗ nào mắt đoạn diệt, sắc tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu... Chỗ nào ý được đoạn diệt, pháp tưởng được ly tham, các xứ cần phải được hiểu’". Này chư Hiền, lời Thế Tôn nói lên vắn tắt này, không được phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, tôi hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như sau: Lời Thế Tôn nói, này chư Hiền, là thuộc về đoạn diệt sáu xứ. Do vậy, này chư Hiền, các xứ cần phải hiểu: "Chỗ nào mắt đoạn diệt, sắc tưởng được ly tham, các xứ cần phải hiểu... Chỗ nào ý đoạn diệt, các pháp tưởng được ly tham, các xứ cần phải hiểu biết". Các xứ cần phải được hiểu như vậy.
14) Này chư Hiền, lời Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt này, ý nghĩa không được phân tích một cách rõ ràng, ý nghĩa ấy tôi hiểu một cách rõ ràng như vậy. Nếu muốn, chư Hiền hãy đi đến Thế Tôn và hỏi về ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích như thế nào, chư Hiền hãy như vậy thọ trì.
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ananda, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
15) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, lời Thế Tôn nói lên vắn tắt cho chúng con, không có phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, Thế Tôn đi vào tịnh xá: "Do vậy, này các Tỷ-kheo, các xứ cần phải được hiểu. ‘Chỗ nào mắt đoạn diệt, chỗ ấy sắc tưởng được ly tham, các xứ cần phải được hiểu... Chỗ nào ý đoạn diệt, chỗ ấy pháp tưởng được ly tham, các xứ phải được hiểu’. Các xứ cần phải hiểu như vậy". Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn ra đi không bao lâu, chúng con suy nghĩ như sau: "Này chư Hiền, sau khi nói lên lời thuyết giảng này cho chúng ta, nhưng không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tịnh xá: `Do vậy, này các Tỷ-kheo, các xứ cần phải được hiểu: ‘Chỗ nào mắt đoạn diệt, chỗ ấy sắc tưởng được ly tham, các xứ cần phải được hiểu... Chỗ nào ý đoạn diệt, chỗ ấy các pháp tưởng được ly tham, các xứ cần phải được hiểu’. Các xứ cần phải hiểu như vậy', nhưng ý nghĩa không được phân tích một cách rộng rãi, ai có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi?".
16) Bạch Thế Tôn, chúng con suy nghĩ như sau: "Tôn giả Ananda được bậc Ðạo Sư tán thán và được các bậc đồng Phạm hạnh có trí kính trọng. Với lời Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt này, nhưng không được phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Tôn giả Ananda có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi. Vậy chúng ta hãy đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, hãy hỏi Tôn giả Ananda về ý nghĩa này".
17) Rồi bạch Thế Tôn, chúng con đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, chúng con hỏi Tôn giả Ananda về ý nghĩa này. Bạch Thế Tôn, Tôn giả Ananda với những lý do này, với những câu này, với những chữ này, đã phân tích ý nghĩa.
-- Hiền trí, này các Tỷ-kheo, là Ananda! Ðại tuệ, này các Tỷ-kheo, là Ananda! Này các Tỷ-kheo, nếu các Ông hỏi Ta về ý nghĩa này, Ta cũng sẽ trả lời như vậy, như Ananda đã trả lời. Ðây là ý nghĩa của lời nói ấy, hãy như vậy thọ trì.

----
Tìm Hiểu

 

Theo ngài Ānanda ‘Lời Thế Tôn nói, này chư Hiền, là thuộc về đoạn diệt sáu xứ’. Sáu xứ là nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ.

Theo chú giải sự diệt của sáu xứ đồng nghĩa với Niết bàn.
Điểm đặc biệt là không đề cập đến sáu ngoại xứ, nhưng lại đề cập đến năm loại dục lạc. Thay cho sáu ngoại xứ là sáu tưởng – sắc tưởng, thinh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng. Đưa vào năm dục lạc để nêu lên dục ái (tham) trong dục giới. Sáu xứ khi tiếp xúc với năm dục này tạo ra sáu tưởng. Cần lưu ý, pháp tưởng vẫn có mặt vì không phải chỉ có sắc tưởng, thinh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, mà pháp tưởng vẫn có, tức là ý tưởng, quan niệm về những cảnh đó và nó còn nghiêm trọng hơn năm tưởng kia như mở đầu Đức Phật đã dạy ‘Này các Tỷ kheo, đối với năm dục công đức mà tâm các Ông trước đây cảm xúc, đã thuộc quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại; ở đây, tâm các Ông đi đến cuồng nhiệt khi chúng có mặt hiện tại, và trở thành giảm thiểu khi chúng chưa đến, còn ở vị lai’.

Trước khi có sáu tưởng phải có sáu xúc. Do duyên xúc, thọ và tưởng phát sanh và tạo ra thế giới của cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh hương, cảnh vị, cảnh xúc, cảnh pháp. Thế giới do tưởng tạo ra nên chúng sanh hiểu thế giới tùy theo cái tưởng của mỗi loại. Loài người thấy một con sông mênh mông nước, ngạ quỷ thấy là một sa mạc khô cạn. Con chó thấy xác chuột chết hôi hám là thức ăn ngon, nhưng loài người thấy là đáng ghê tởm.
Saḷāyatananirodho Nibbānaṃ - Sự diệt sáu xứ là Niết bàn.
Nhưng diệt bằng cách nào ? Sáu xứ tạo ra thế giới ngoại xứ và tưởng đóng vai trò quan trọng, chính tưởng người ta quan niệm thế giới là thường còn, có một cái ngã tồn tại trong thế giới. Nếu hiểu bản chất của thế giới do tưởng tạo ra và ly tham với nó thì có Niết bàn. Cách để ly tham thế giới ảo thuật này không gì khác hơn là thực hành niệm xứ . Khi không có niệm, tâm trở thành lạc lõng và bị tưởng cuốn đi theo cuồng phong của nó. Mỗi khi thấy sắc, nghe tiếng ….. tưởng xen vào, lấy kinh nghiệm quá khứ để hiểu hiện tại, cho nên tất cả những gì được nhận thức là cũ kỹ, ô nhiễm. Khi có niệm, cái nhìn trực diện vào thực tại, tưởng quá khứ nhường lối cho niệm, và cái trí về thực tại, cái thấy biết về cái mới, cái thanh tịnh xuất hiện, lúc đó có ly tham, ly si và Niết bàn. Đây là duyên cho Niết bàn thực sự. Nếu không có tu tập niệm xứ mà mong có đạo, quả siêu thế hoặc Niết bàn thì không bao giờ có. Thánh Pháp được diễn tả là vượt ngoài thời gian, chỉ bậc có trí mới hiểu biết. Nghĩa là bậc Thánh mới có Thánh Pháp này. Nhưng Đức Phật đã dạy rõ ràng rằng Thánh Pháp này phải tu tập mới có, như Phật ngôn trong Tương ưng bộ kinh:

‘Rồi Tôn giả Upavàna đi đến Thế Tôn...
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Upavàna bạch Thế Tôn:
-- "Thiết thực hiện tại, thiết thực hiện tại, bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là thiết thực hiện tại, có kết quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được những người có trí tự mình giác hiểu?
Ở đây, này Upavàna, sau khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo cảm thọ sắc và cảm thọ tham sắc có nội tham đối với các sắc; vị ấy biết rõ: "Tôi có nội tham đối với các sắc". Cho đến chừng nào sau khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo cảm thọ sắc và cảm thọ tham sắc, và có nội tham đối với các sắc; vị ấy biết rõ: "Tôi có nội tham đối với các sắc". Như vậy, này Upavàna, là thiết thực hiện tại, có kết quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được những người trí tự mình giác hiểu.
Lại nữa, này Upavàna, Tỷ-kheo sau khi tai nghe tiếng... sau khi mũi ngửi hương...
Lại nữa, này Upavàna, Tỷ-kheo sau khi lưỡi nếm vị... thân cảm xúc...
Lại nữa, này Upavàna, sau khi ý nhận biết pháp, Tỷ-kheo cảm thọ pháp và cảm thọ tham pháp, và có nội tham đối với các pháp; vị ấy biết rõ: "Tôi có nội tham đối với các pháp". Cho đến chừng nào sau khi ý nhận biết pháp, Tỷ-kheo cảm thọ pháp và cảm thọ tham pháp, và có nội tham đối với các pháp; vị ấy biết rõ: "Tôi có nội tham đối với các pháp". Như vậy, này Upavàna, là thiết thực hiện tại, có kết quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được những người trí tự mình giác hiểu.
Ở đấy, này Upavàna, sau khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo cảm thọ sắc, nhưng không cảm thọ tham sắc, và không có nội tham đối với sắc; vị ấy biết rõ: "Tôi không có nội tham đối với sắc". Cho đến chừng nào, này Upavàna, sau khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo cảm thọ sắc, nhưng không cảm thọ tham sắc, và không có nội tham đối với các sắc; vị ấy biết rõ: "Tôi không có nội tham đối với các sắc". Như vậy, này Upavàna, là thiết thực hiện tại, có kết quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được những người trí tự mình giác hiểu.
Lại nữa, này Upavàna, Tỷ-kheo sau khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc...
Lại nữa, này Upavàna, sau khi ý nhận thức pháp, Tỷ-kheo cảm thọ pháp nhưng không cảm thọ tham pháp, và không có nội tham đối với pháp; vị ấy biết rõ: "Tôi không có nội tham đối với pháp". Cho đến chừng nào, này Upavàna, Tỷ-kheo sau khi ý nhận thức pháp, cảm thọ pháp nhưng không cảm thọ tham pháp, và không có nội tham đối với pháp; vị ấy biết rõ: "Tôi không có nội tham đối với pháp". Như vậy, này Upavàna, là thiết thực hiện tại, có kết quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, chỉ những người có trí tự mình giác hiểu.
( Tương ưng bộ kinh S.iv,41)

Trích dẫn kinh Upavàna trên cho thấy đây là cách Đức Phật hướng dẫn tu tập niệm xứ rất thực tiễn và rõ ràng.

 

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là niệm xứ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các cảm thọ... trú, quán tâm trên tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là niệm xứ.
-----
Nhiếp phục tham ưu ở đời – Trong kinh niệm xứ dài của Trung bộ, Trường bộ và kinh Phân tích niệm xứ đều có câu này.

‘Nhiếp phục tham ưu ở đời ‘ phải rất quan trọng và cần thiết nên Đức Phật mới nêu ra.
Vậy tham, ưu ở đời là gì mà khi tu tập niệm xứ cần phải nhiếp phục ?

Trong chú giải nói rằng tham, ưu là hai triền cái đầu tiên trong năm triền cái, tức là dục tham và sân. Đây là hai triền cái lớn.
Chúng ta hãy tìm hiểu thêm.

Vineyya loke abhijjhādomanassaṃ
Động từ vineti: loại bỏ, abhijjhā: tham, domanassa: ưu, sân., loke: ở đời. (Tu tập niệm xứ) để loại bỏ tham, sân ở đời.
Ở đời, ở thế giới chỉ cho sáu nội xứ hoặc năm thủ uẩn.

Tham, sân là hai cặp đối nghịch khi các căn tiếp xúc các cảnh sinh ra thọ . Thọ duyên ái. Dù là thọ khổ, thọ lạc, thọ xả cũng làm duyên cho ái. Nghĩa là khi đối tượng khả ái thì ái ham thích, nắm giữ lấy. Khi đối tượng không khả ái, tạo ra thọ khổ thì ái càng mạnh hơn. Nó khao khát thoát khỏi đối tượng đó. Ái duyên thủ. Ái yếu có tên là ái, ái mạnh có tên là thủ. Do vậy khi ái mạnh, có tham hoặc ưu và chúng trở thành thủ uẩn. Nơi nào có thủ là có khổ. Không tu tập niệm xứ sẽ tạo ra tiến trình ‘các căn + các cảnh + thức = xúc - thọ - tưởng - tầm (tà tư tưởng, tà tư duy) - vọng tưởng (ái, mạn, kiến). Từ nơi vọng tưởng (papañca) này, tâm trí luôn bị ám ảnh bởi ái, mạn và tà kiến.

Không có niệm xứ, nội tâm luôn bị xung đột giữa tham, sân này. Từ xung đột này, tâm bị dẫn dắt ra ngoại giới, không còn giữ được sự thanh tịnh. Cũng chính tham sân này tạo ra những xung đột bên ngoài như chiến tranh từ phạm vi nhỏ đến phạm vi lớn giữa các nước trên thế giới. Tâm không bình thì thế giới không bình là vậy. Tu tập niệm xứ là để chấm dứt những cuộc xung đột nội tâm. Một tâm tham khởi lên, nếu có niệm sẽ không trở thành thủ uẩn, một tâm sân khởi lên nếu có niệm sẽ không trở thành thủ uẩn. Nhưng từ nơi nguồn gốc của tham, sân là ái. Nếu niệm mạnh, ngay khi có xúc, có thọ thì tưởng sai lạc về cảnh bị loại trừ thì ái không sinh, tham (thích), ưu (không thích) cũng không có dịp phát sanh. Bởi vì tham, ưu là thủ do ái làm duyên ( ái quá mạnh thì trở thảnh thủ).

Đây là Phật ngôn:
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hãy trú chánh niệm, tỉnh giác. Ðây là lời giáo giới của Ta cho các Ông.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo chánh niệm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân (thọ, tâm, pháp), nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo chánh niệm.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo tỉnh giác? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết rõ ràng các cảm thọ khởi lên, biết rõ ràng các cảm thọ an trú, biết rõ ràng các cảm thọ đi đến tiêu mất; biết rõ ràng các tưởng khởi lên, biết rõ ràng các tưởng an trú, biết rõ ràng các tưởng đi đến tiêu mất. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo tỉnh giác.
- Tương ưng bộ kinh (S.v,180)

 

Phần cuối Tìm hiểu kinh phân tích niệm xứ

Trú, quán tánh tập khởi trên thân, (thọ, tâm, pháp):
Trú, quán tánh đoạn diệt trên thân, (thọ, tâm, pháp):
Trú, quán tánh tập khởi và tánh đoạn diệt trên thân, (thọ, tâm, pháp):

Phần thứ nhất: Trú, quán tánh tập khởi.
Người tu tập niệm xứ phải quan sát để biết rõ bản chất sinh của danh, sắc. Danh, sắc là pháp hữu vi nên có bản chất sinh là sự khởi đầu.
Như trường hợp tâm sân sinh lên và biết rõ khi nó sinh là trú , quán tánh tập khởi.

Phần thứ nhì: Trú, quán tánh đoạn diệt.
Bản chất diệt của danh, sắc là sự kết thúc. Như trường hợp tâm sân diệt đi và biết rõ khi nó diệt là trú, quán tánh đoạn diệt.
Trú nghĩa là sống với, ở với. Một pháp sinh và diệt, phải sống và quan sát, không từ bỏ sự quan sát pháp đó, đây là trú, quán. Trú, quán sinh, diệt sẽ hiểu tướng vô thường của danh, sắc. Từ sinh đến diệt là diễn tiến của vô thường. Trạng thái sinh diệt diễn ra quá nhanh nên có sự lầm tưởng là một chuỗi dài liên tục, không thay đổi. Khi trú, quán sinh, diệt thì không có sự liên tục, thường hằng, mà chỉ có vô số sát na từ sinh đến diệt. Lúc đó, tướng vô thường được hiểu rõ.
Tu tập niệm xứ biết rõ sinh, diệt của từng oai nghi như co, duỗi tay, chân và biết rõ sinh diệt của ý muốn, của trạng thái tâm, cảm thọ, các pháp, đây là sự tiến triển tốt trong việc phát triển niệm, định và tuệ. Trú, quán tánh sinh, kế đó trú quán tánh diệt để hiểu rõ tướng vô thường. Trong vô thường luôn có trạng thái bức bách. Thân, thọ, tâm, pháp là vô thường nên luôn có những bức bách. Đây là biểu hiện của tướng khổ. Do vậy, trú, quán tánh sinh, diệt thường xuyên sẽ hiểu rõ tướng vô thường và tướng khổ. Cái gì vô thường là khổ.

Ai sống một trăm năm
Không thấy pháp sinh diệt
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sinh diệt.
Pháp cú 113 – HT. Thích Minh Châu dịch

Phần thứ ba: Trú, quán tánh tập khởi và tánh đoạn diệt.
Làm sao trú, quán đồng thời hai sự việc? Ý nghĩa phần thứ ba này nêu rõ sự tiến triển sâu đậm của tu tập niệm xứ. Pháp sinh, diệt do nhân duyên tạo tác. Như bọt nước, trước không có, do duyên tạo ra mới có, khi hết duyên thì tan biến. Trú, quán tánh sinh và tánh diệt cũng nhận thấy sinh, diệt là do duyên, cho nên có tính cách rỗng không, không có cốt lõi. Phần thứ ba này đưa đến hiểu tướng vô ngã của các pháp. Nói cách khác, trú, quán tánh tập khởi sẽ hiểu rõ thế giới hữu vi là có do duyên sinh. Trừ tà kiến về sự đoạn diệt (đoạn kiến). Trú quán tánh đoạn diệt sẽ hiểu rõ thế giới hữu vi là không do duyên diệt. Trừ tà kiến về sự thường hằng (thường kiến). Trú, quán tánh tập khởi và tánh đoạn diệt sẽ hiểu rõ rằng có – không là do duyên sinh khởi nên ngã chấp, ngã kiến về thế giới có - không bị loại trừ. Đây là trung đạo đưa đến giải thoát . Phần thứ ba này được tu tập sâu đậm hơn sẽ đưa đến pháp nhãn và trở thành bậc dự lưu. Pháp nhãn đó là :
Yaṃ kiñci samudayadhammaṃ.
Sabbantaṃ nirodhadhamman’ti.
‘Bất cứ pháp nào có bản chất sinh, tất cả pháp đó có bản chất diệt’.

Đoạn cuối kinh phân tích niệm xứ:

‘Và này các Tỷ-kheo, thế nào là đạo lộ đưa đến sự tu tập bốn niệm xứ? Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các Tỷ kheo, đây gọi là đạo lộ đưa đến tu tập bốn niệm xứ’.

Trong niệm xứ, niệm giữ vai trò bảo vệ tâm và ngăn không cho phiền não xâm nhập. Khi niệm luôn luôn có mặt trong mọi trường hợp, nó sẽ đưa đến định và định giúp cho tuệ hiểu rõ bản chất của các pháp,
‘Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập Thiền định. Này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo được Thiền định, hiểu rõ như thật. (Samādhiṃ, bhikkhave, bhāvetha. Samāhito, bhikkhave, bhikkhu yathābhūtaṃ pajānāti. - (S.iv,80)

Định ở đây có phải là định trong thiền chỉ không?

Khi có niệm, tuệ có thể phát sanh bởi vì niệm mang lại định mà có thể giúp tuệ hoặc chánh kiến phát sanh.
Bất cứ thiền nào đang thực hành, điều quan trọng là phải có niệm bởi vì niệm bảo vệ tâm từ sự xâm nhập của phiền não. Niệm trong thiền chỉ đưa đến định, tập trung vào đề mục chế định. Niệm trong thiền quán đưa đến định tập trung vào bất cứ đề mục chân đế nào và giúp cho trí tuệ hiểu rõ các pháp như thực. Không có tuệ như thế không thể loại bỏ chấp thủ tham, ưu và không thể có xả ly, giải thoát.

Theo kinh điển, có hai cách đưa đến giải thoát:
Samathayānika (cổ xe thiền chỉ). Tu tập thiền chỉ để chứng các bậc thiền trước. Đây là phương pháp gián tiếp đưa đến giải thoát. Nếu hành giả ngừng lại ở các thiền chứng thì không được gọi là cổ xe thiền chỉ, mà chỉ là samatha (chỉ) thuần túy và không thể giải thoát được. Thứ hai là vipassanāyānika (cổ xe thiền quán). Đây là phương pháp trực tiếp đưa đến giải thoát, dù không có thiền chỉ vẫn đủ khả năng thấy rõ thực tướng các pháp.Thiền chỉ tách rời quán thì không gọi là chánh định được dù chứng thiền rất cao, vì thiền chỉ thuần túy không có yếu tố chánh kiến trong chánh đạo. Khi tu tập niệm xứ, niệm liên tục trên đề mục đưa đến định và khi định vững chắc sẽ có tên là khaṇikasamādhi (sát na định) tương đương upacāra samādhi (cận định trong thiền chỉ). Với định này, tuệ có khả năng soi tỏ chân tướng của các pháp.

Sự lựa chọn đúng đắn là không nên theo thiền chỉ trước. Nên phát triển niệm xứ ít nhất đến sát na định. Sau đó nếu muốn tu tập thiền chỉ sẽ dễ dàng định và không tách rời chánh đạo. Để đạt ngũ thiền trong thiền chỉ không phải là dễ, nhưng nếu hành giả niệm yếu thì dễ đạt đến thiền ngủ và sẽ sanh ra vọng tưởng, đem lại nhiều tai hại cho thân lẫn tâm.

Đại tứ thập kinh trong Trung bộ kinh và kinh phân tích niệm xứ trong Tương ưng bộ kinh không hề đề cập chánh định như là thiền chỉ. Trong câu ‘Và này các Tỷ kheo, thế nào là niệm xứ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các cảm thọ... trú, quán tâm trên tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là niệm xứ’. Phật ngôn trên bao hàm chánh kiến, chánh tư tuy, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Khi năm chánh đạo có mặt thì mỗi hành động, mỗi lời nói sẽ tương quan với phần giới của chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.

Từ lâu đã có quan điểm cho rằng phải có thiền chỉ trước, sau đó mới có thể phát triển quán.
Khi phong trào Vipassanā Miến điện phát khởi và thiền sư Mahāsī Sayādaw có nhờ trưởng lão Kheminda giúp truyền bá phương pháp thiền quán sang Tích Lan. Hòa thượng tự tin lời đề nghị sẽ được đáp ứng, bởi vì trưởng lão Soma và trưởng lão Kheminda thọ giới tỳ kheo ở Miến Điện. Nhưng Trưởng lão Kheminda từ chối. Theo trưởng lão phương pháp thiền của thiền sư Mahāsī Sayādaw không đúng với Buddhavacana (Phật ngôn), vì không theo đạo tuần tự giới - định - tuệ, Định ở đây theo ý trưởng lão là các bậc thiền chỉ. Trong khi đó, phương pháp của thiền sư Mahāsī Sayādaw cho rằng tất cả mọi người, dù là phật tử, kể cả không phải phật tử đều có thể thực hành trực tiếp vipassanā (thiền quán). Theo trưởng lão, đạo tuần tự với ba uẩn là giới, định, tuệ và bảy thanh tịnh nêu ra trong Rathavinītasutta (kinh trạm xe, Trung bộ 24) và trong cẩm nang của Phật giáo Theravāda - bộ Visuddhimagga (thanh tịnh đạo) tạo thành chuỗi liên kết không thể thay đổi về thiền mà Đức Phật đã thiết lập. Đức Phật đã dạy rằng mọi pháp phát sanh do các duyên, như vậy các chi phần của đạo phải được hoàn thành theo thứ tự đúng đắn mà mỗi uẩn là duyên cần thiết cho uẩn kia. Trưởng lão lý luận: Hành giả không thể nhảy vọt qua Samādhi (định) và các jhāna (thiền) để đi trực tiếp đến quán, bởi vì định trình bày duyên cần thiết cho quán và quán nương vào định. Nếu các bậc thiền không được phát triển thì năm triền cái cũng không thể được trừ và chừng nào năm triền cái có mặt thì quán trí không thể được đạt đến.

Ý kiến bất đồng đã nổ ra những cuộc tranh luận giữa các trưởng lão: Bên phía Tích Lan truyền thống, nổi bật là trưởng lão Kassapa, trưởng lão Kheminda . Bên phía Miến Điện, là các thiền sư Vipassanā, lãnh đạo là thiền sư Mahāsī Sayādaw từ tháng 7- 1966 đến tháng 12- 1970 đăng trong World Buddhism. Các thiền sư Vipassanā Miến Điện, bác bỏ quan điểm rằng đạo tuần tự giới - định - tuệ để đưa đến cứu cánh giải thoát là thẩm quyền độc nhất vô nhị theo đúng kinh điển nguyên thủy. Các thiền sư đã trình bày lập trường kinh điển để cho toàn thể phong trào vipassanā biết rằng các Ngài hướng dẫn không sai Phật ngôn.
Tuy nhiên, trong cuộc tranh luận này, trưởng lão Nyanaponika dù thân thiết với những trưởng lão Kheminda, Kassapa, nhưng vị trưởng lão lỗi lạc người Đức này đứng ngoài cuộc tranh luận và vẫn hành theo phương pháp của thiền sư Mahāsī Sayādaw.

Ngày nay thiền vipassanā của Burma đã có nền tảng vững chắc khắp thế giới đông, tây và quan niệm về thiền chỉ, thiền quán của Tích Lan cũng đã có cái nhìn cởi mở hơn.

Như thế nào là người giải thoát?

Có phải là người chán nản, chán ghét, mọi sự ? Chắc chắn không phải rồi.
Có phải là người đắc những bậc thiền, có năng lực siêu nhân như thiên nhãn, thiên nhĩ, thần thông biến hoá? Còn xa giải thoát lắm.
Người chưa giải thoát như người mang nhiều tật bệnh. Còn người giải thoát như người hết bệnh hoàn toàn. Người hết bệnh đâu có gì phi thường, chỉ có sự an lạc tự nhiên của người khỏi bệnh.

Phật ngôn:
‘Nhưng này Bhaggava, Ta không có nói như vậy: "Khi một ai đạt đến thanh tịnh, giải thoát, khi ấy vị ấy biết mọi vật là bất tịnh." Này Bhaggava, Ta nói như sau: "Khi một ai đạt đến thanh tịnh, giải thoát, khi ấy vị ấy biết mọi vật là thanh tịnh" – Kinh Pātikasutta 24, Trường bộ kinh.

Do vậy người học Phật Pháp phải cẩn trọng học và hành Pháp để không hiểu sai về pháp hành và giải thoát. Đây là những điều thiết yếu mà người học đạo phải chánh tâm ghi nhớ.
 

Bài viết năm 2020 khác