Trí nhớ tốt Tỳ kheo Giác Lộc

09/12/2021 - 09:13   701

CÔ GÁI VÀ BÌNH SỮA

Cô Pê Ret mang bình sữa trên đầu ra chợ bán. Trên đường đi, cô suy tính ‘ Với số tiền bán sữa, cô sẽ mua một trăm quả trứng thêm vào ổ gà đang ấp, như vậy số gà sẽ tăng gấp ba lần. Gà lớn lên, mình sẽ mua một con lợn, khi lợn lớn mình bán rồi mua con bò, thừa tiền mua thêm con bê, nhìn nó tung tăng thật là thích’. Cô Pê Ret nghĩ đến đó quá vui sướng liền nhảy cẫng lên. Ngay tức thì bình sữa rơi xuống đất . Thế là trứng, gà, lợn, bò, bê xin nói lời chào vĩnh biệt. Cô Pê Ret chỉ biết hối tiếc vì mất của, lại còn lo âu khi về nhà bị chồng mắng.
- Ngụ ngôn La Fontaine.

* Bài này dùng kèm bài viết sắp đăng ‘ Làm thế nào để có trí nhớ tốt’

Làm thế nào để có trí nhớ tốt?

Trí nhớ là khả năng nhớ các sự kiện, các kinh nghiệm. Đây là một danh pháp, chớ không phải sắc pháp.
Saññā: Tưởng là việc nhớ lại dựa vào kinh nghiệm quá khứ. Trong Vi diệu pháp tưởng là tâm sở biến hành trong nhóm tợ tha, có mặt trong tất cả loại tâm và thuộc tưởng uẩn.
Sati: Niệm là không quên, không xao lãng và có mặt trong các tâm tịnh hảo. Trong khi tưởng thuộc tưởng uẩn thì niệm thuộc hành uẩn.
Tưởng không phải là trí nhớ, tưởng giúp tăng cường trí nhớ nếu là tưởng thiện. Trái lại tưởng sẽ hại trí nhớ nếu là những tưởng bất thiện.
Niệm là yếu tố đặc biệt giúp cho trí nhớ hoàn hảo và duy trì trí nhớ lâu dài. Muốn được như vậy thì niệm phải được tu tập. Khi niệm vững chắc nó sẽ bảo vệ trí nhớ và tăng trưởng các thiện pháp. Muốn phát triển niệm trong tứ niệm xứ cần phải tu tập niệm kiên trì, vững chắc, đúng đắn.
Trừ ra những trường hợp ảnh hưởng đến não như té, bệnh về não. Nguyên nhân chính gây ra tình trạng giảm trí nhớ hoặc mất trí nhớ thuộc về tâm lý. Đó là do năm triền cái (nīvaraṇa) khiến người nào đó không giữ được trí nhớ tốt như xưa. Nīvaraṇa nghĩa là pháp chướng ngại, pháp làm cho tâm ô nhiễm. Chúng là nghịch pháp của chỉ và quán. Năm triền cái gồm có:
1- Kāmachanda (dục tham): Ham muốn các sắc, thinh, hương, vị, xúc khả ái. Đồng nghĩa với kilesa kāma (phiền não dục), kāmarāga (dục ái), kāmāvitakka (dục tầm).
2- Vyāpāda (Sân): Khi năm dục khả ái thay đổi thì sân triền cái phát sanh. Những đối tượng không hài lòng, những khổ thọ tạo ra sân triền cái.
3- Thīna-middha (Hôn trầm- thụy miên): Hành giả quen gọi là hôn trầm - buồn ngủ. Đây là hai tâm sở, không phải một và cũng không phải chứng buồn ngủ vật lý. Đó là yếu tố thụ động, suy nhược, uể oải, co rút lại của tâm và tâm sở và tạo ra buồn ngủ. Như vậy buồn ngủ là quả của tâm trạng yếu đuối. Tăng chi bộ kinh nêu ra trường hợp Ngài Mục Kiền Liên bị hôn - thụy chi phối. Nên nhớ lúc đó Ngài đã chứng quả Dự lưu. Đến A la hán mới trừ hoàn toàn hôn - thụy.
4- Udhacca- kukkucca (Trạo- hối): Trạo cử và hối tiếc.
Trạo cử thường gọi là phóng tâm, một trạng thái bất an, xao động. Hối tiếc là trạng thái lo âu, hối tiếc vì những điều xấu đã làm và những điều tốt không làm.
5- Vicikicchā (Nghi ): Trạng thái phân vân, thiếu tự tin về pháp hành, chân lý giải thoát.

Năm triền cái phát sanh do những tưởng bất thiện tạo ra. Có sáu tưởng: Sắc tưởng, thinh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng. Khi sáu tưởng này là bất thiện, nó đưa tâm chạy theo quá khứ, tương lai và tạo ra những tâm bệnh như năm triền cái. Từ nơi năm triền cái là những pháp làm nhân duyên cho các pháp bất thiện sinh khởi và chi phối tâm, làm cho tâm lu mờ, không thanh tịnh, do đó mà tạo ra tình trạng từ suy giảm trí nhớ đến mất trí nhớ. Phương thuốc để khắc phục năm triền cái và củng cố trí nhớ không gì khác hơn là thực hành niệm (sati). Đức Phật dạy trong Tương ưng bô kinh V (s.v.145): ‘ Nếu ai nói về đống bất thiện (akusalarāsi), muốn nói một cách chân chánh, phải nói năm triền cái là đống bất thiện. Nếu ai nói về đống thiện (kusalarāsi), muốn nói một cách chân chánh, phải nói bốn niệm xứ là đống thiện’.

Như vậy việc ngồi trên đống bất thiện là duy trì năm triền cái. Người hiểu đúng Phật Pháp nên ngồi trên đống thiện, tức là tu tập bốn niệm xứ.

Trong số quý vị phật tử đọc bài viết này đều trải qua thời thơ ấu với trí nhớ tuyệt vời, các bài học đọc qua vài lần là thuộc nằm lòng. Đến tuổi trưởng thành, tâm trí du nhập quá nhiều thông tin liên quan đến gia đình, công việc, giao tiếp … Lúc đó tâm trí hồn nhiên như thời tuổi thơ không còn nữa nhường chỗ cho tâm trí bận rộn với đủ thứ vấn đề và hiện tượng năm triền cái áp đảo tâm trí bắt đầu xảy ra.

Nếu ai có khả năng đặt gánh lo âu xuống dù bắt cứ vấn đề gì và biết làm chủ cảm xúc vui buồn trong mọi trường hợp thì tâm trí không gây tổn thương cho bộ não và các cơ quan khác như tim, phổi … Đây là yếu tố bảo vệ trí nhớ một cách tự nhiên. Cuộc sống rất cần trí nhớ trong mọi lĩnh vực. Bác sĩ mà trí nhớ kém thì như thế nào, tài xế, giáo viên, giám đốc, nhân viên các ngành nghề đều phải có trí nhớ. Giác Lộc tk. mà có vấn đề về trí nhớ thì đang giảng cũng phải nửa đường gãy gánh. Khi về già mà đãng trí hoặc mất trí nhớ luôn thì như thế nào? Các sách đông tây chỉ dẫn nhiều cách để có trí nhớ tốt. Nhưng cách tự nhiên và toàn hảo mọi mặt đã có trong lời dạy của Đức Phật trên 2500 năm và đó là thực hành niệm trong đời sống hằng ngày.

Chúng ta sẽ bắt đầu niệm như thế nào cho đúng? Cô gái và bình sữa trong chuyện ngụ ngôn mang bình sữa trên đầu, thay vì mang bình sữa ra chợ bán, cô sống với những tưởng về quá khứ, tương lai, cuối cùng đánh rơi thực tại là bình sữa. Từ chuyện ngụ ngôn này, chúng ta thực hành niệm bằng cách sống trong hiện tại, dù bất cứ công việc gì, bất cứ nơi đâu, chỉ làm công việc trong hiện tại, không sống trong những giấc mơ quá khứ hoặc tương lai. Khi nghe Pháp nếu quý vị giữ tâm trầm lặng, theo dõi từ đầu đến cuối bài giảng, không xen vào những ý nghĩ vẩn vơ thì bài giảng sẽ được ghi nhớ không thiếu sót. Điều này đòi hỏi phải có niệm, tức là trong lúc đó tâm chỉ chuyên chú vào việc nghe Pháp. Câu chuyện chú giải Pháp cú về một nữ phật tử đang nghe Pháp, được báo tin ăn trộm đột nhập vào nhà, cướp tài sản. Nhưng bà vẫn không để tâm việc đó, vẫn tiếp tục nghe Pháp. Đây là một gương sáng về thực hành niệm.

Trong mọi công việc chỉ cần bỏ cái tâm bận rộn và giữ tâm trầm lặng chuyên chú vào công việc thì lúc đó có niệm. Khi đọc kinh sách, một tâm bận rộn, bất an vì những ý nghĩ không thể nào tiếp thu ý nghĩa sâu xa trong Pháp. Trái lại một tâm trầm lặng như hồ nước sâu thẳm khi nghe Pháp là điều kiện để nhớ Pháp và có trí tuệ trong Pháp. Có người hỏi: Thực hành niệm phải ở nơi an tịnh, cách xa mọi người. Như chúng tôi đây, phải làm việc và giao tiếp rộng rải thì làm sao có niệm được? Xin trả lời: Việc để cho tâm trí truy tầm quá khứ, ước vọng tương lai, những cuộc rong chơi như vậy là do thói quen. Nếu thói quen thất niệm là tự nhiên thì thói quen có niệm cũng tự nhiên. Chỉ cần thay đổi thói quen thì mọi việc sẽ thay đổi. Tâm trí không trầm lặng sẽ được thay thế bằng tâm trí trầm lặng và niệm sẽ hiện diện lúc đó. Dù đang làm việc, hoặc tiếp nhiều người, quý vị vẫn thực hành niệm dễ dàng. Chuyên chú vào công việc hoặc vào việc giao tiếp, không để việc khác xen vào, lúc đó có niệm. Không khó, bởi vì để cho tâm trầm lặng là cách sống tự nhiên ai cũng có. Khi đang tiếp chuyện, đừng để cho chuyện khác xen vào và quý vị sẽ hoàn thành cuộc nói chuyện tốt đẹp, không có sai sót về từ ngữ và ý tứ.

Nếu thường xuyên thực hành niệm trong đời sống hằng ngày thì trí nhớ tự nhiên tốt. Năm triền cái là chướng ngại cho chỉ và quán. Khi đã thực hành niệm thuần thục thì việc tu tập chỉ quán sẽ dễ dàng vì niệm hóa giải các triền cái. Điều quan trọng hơn hết, sau khi có niệm trong đời sống hằng ngày, quý vị sẽ có khả năng thực hành niệm xứ.

Phần 3: Niệm xứ và thực hành niệm xứ

Trong lúc bình yên dễ có niệm, trong lúc lo âu hoặc nổi giận, lòng đầy sóng gió như vậy thì làm sao giữ tâm yên lặng để có niệm. Nếu có niệm thì có phải là niệm xứ không? Vì đề tài tập trung vào năm triền cái nên phần pháp niệm xứ được phân tích chu đáo. Giữa pháp niệm xứ và hai uẩn - tưởng, hành liên quan như thế nào?
Sati: Niệm luôn luôn có mặt trong các tâm tịnh hảo, một hành động bố thí cho người nghèo khổ của đứa bé 7 tuổi cũng có niệm, nhưng chưa hẳn là có trí. Niệm trong niệm xứ phải kết hợp với trí và khác với tưởng. Niệm như người gác cổng, bất cứ ai ra vào đều biết rõ. Cũng vậy niệm giữ vai trò phát hiện ác pháp, thiện pháp sinh khởi qua các căn môn và giúp cho tuệ quán sát bản chất các pháp và ly tham, ly sân, ly si đối với các pháp đó.
Niệm xứ (satipaṭṭhāna) là tựa đề của pháp môn mà Đức Phật gọi là ‘Con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh’.
Niệm xứ gồm có: Thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ và pháp niệm xứ. Tứ niệm xứ này không phải là triết lý siêu hình xa rời thực tế. Toàn thể nội dung chỉ đề cập đến năm uẩn. Mỗi niệm xứ liên quan đến các uẩn: Thân niệm xứ liên quan sắc uẩn, thọ niệm xứ -LQ- thọ uẩn, tâm niệm xứ -LQ- thức uẩn, pháp niệm xứ -LQ- tưởng uẩn và hành uẩn. Pháp (dhamma) ở đây có nghĩa là sabhāva (bản chất riêng của thực tại, chân đế, đối nghịch với paññatti, chế định) Tưởng uẩn làm công việc gây ấn tượng và liên tưởng, phần còn lại là của hành uẩn như trường hợp thất niệm, tà kiến và có niệm, chánh kiến.
Tưởng ví ráng mặt trời (marīcikūpamā saññā), Hành ví với cây chuối( saṅkhārā kadalūpamā)

Giữa trời nắng nhìn thấy đằng xa là một hồ nước nhưng đến gần thì ảo ảnh đó biến mất. Đôi khi người ta nhìn thấy trên bầu trời hiện ra hình Phật và quần chúng đổ xô đi lễ bái, nhưng đó cũng là ảo ảnh do ánh sáng tạo ra ( gọi là hiện tượng quang học). Hành ví với cây chuối vì bản chất là trống không do nhân duyên tạo ra nên sinh diệt chớp nhoáng.
Sáu nội xứ là nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ - Đây là sáu căn môn.
Sáu ngoại xứ là sắc xứ, thinh xứ, hương xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ. Đây là sáu cảnh.
Do duyên mắt và các sắc khởi lên nhãn thức. Do ba pháp này hợp lại nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Ðây là khổ tập khởi. Do duyên tai... Do duyên mũi... Do duyên lưỡi... Do duyên thân... Do duyên ý và các pháp khởi lên ý thức. Do ba pháp này hợp lại nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Ðây là khổ tập khởi, (S.iv,86)
Do duyên mắt và các sắc khởi lên nhãn thức. Do ba pháp này hợp lại nên có xúc. Do duyên xúc nên có thọ. Do duyên thọ nên có ái. Do ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Ðây là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Ðây là khổ chấm dứt.
Do duyên tai... Do duyên mũi... Do duyên lưỡi... Do duyên thân... Do duyên ý và các pháp … Ðây là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Ðây là khổ chấm dứt. (S.iv,86)

Sự tập khởi của tác ý là sự tập khởi của các pháp. Sự đoạn diệt của tác ý là sự chấm dứt của các pháp. (Manasikārasamudayā dhammānaṃ samudayo; manasikāranirodhā dhammānaṃ atthaṅgamo’’ti)

Nếu là phi như lý tác ý khi mắt tiếp xúc cảnh sắc khởi lên nhãn thức. Tưởng sẽ nhận ra cảnh sắc đó là người nam, nữ, vật này, vật nọ và hành tham đắm, chấp thủ đối tượng đó. Tưởng cũng nhận ra nhãn thức là tôi thấy. Chấp danh sắc là chế định nên có thủ uẩn và nghiệp mới hình thành do nơi tà kiến này. Các nội ngoại xứ còn lại cũng phát sanh như vậy.

Khi không có niệm xứ sẽ là nhân duyên cho năm triền cái phát sinh. Khi có niệm xứ thì năm triền phát sinh sẽ được ý thức và trí tuệ sẽ biết rõ dục tham, sân .. là pháp, không có tôi tham, tôi sân … Có niệm xứ khi pháp bất thiện sinh lên liền có ý thức tự nhiên về sự sinh của pháp đó, chẳng hạn sân triền cái sinh lên, niệm ý thức trạng thái đó, không xen vào ý nghĩ, hoặc đặt tên. Nếu có ý nghĩ về trạng thái đó, hoặc đặt tên cho nó thì lúc đó là suy nghĩ về sân, lúc đó không có pháp niệm xứ. Bất cứ triền cái nào sinh lên cũng có niệm tự nhiên như vậy. Nên nhớ cách đặt tên là chế định, không phải là niệm xứ. Khi niệm đã vững chắc thì năm triền cái không còn phiền nhiễu nữa vì duyên của chúng đã bị trí tuệ loại trừ. Duyên của năm triền cái là phi như lý tác ý, hiểu sai các pháp là những chế định như nam, nữ, nhà cửa, tôi thấy, tôi suy nghĩ, tôi thực hành niệm. Khi có niệm xứ vững chắc thì thất giác chi sẽ phát sinh và hành giả ý thức những thiện pháp này chỉ là pháp, là danh pháp chân đế, không có tôi niệm, tôi trạch pháp…

Một nội tâm đang sóng gió vì sân hận làm sao có niệm ? Theo cách niệm thông thường để bảo vệ trí nhớ thì không làm được, nhưng với người có niệm xứ thì không khó. Tại sao sóng gió như vậy? Vì có chế định xen vào, sân hận không phải danh pháp nữa, nó đã trở thành tôi sân hận, đối tượng gây sân hận là lời nói hoặc hành động của ai đó không phải là sắc pháp thuộc chơn đế mà đã trở thành lời nói hoặc hành động của người nam, hoặc nữ. Chấp vào chế định do tưởng và hành tạo ra. Kẹt vào suy nghĩ chế định này nên khó gỡ ra được. Khi có niệm xứ, ý thức sự sân hận là pháp sinh diệt rất nhanh, trí tuệ biết rõ đó là pháp chơn đế, hữu vi, sinh diệt, không có ta, không có người. Niệm giúp cho tuệ soi thấy bản chất của sân hận, như ánh nắng làm tan giọt sương mai.

Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định
Sự vội vã, hấp tấp, muốn chứng niệm, định, tuệ cho mau, đây không phải là chánh tinh tấn. Sự phát triển niệm xứ là khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, nhận thức, có ý thức đó là những chân đế danh hoặc sắc, không có cái ta xen vào. Niêm vững chắc sẽ tự nhiên đến do lòng kiên trì của mỗi hành giả.
Ban đầu phát triển niệm xứ như người đổ từng giọt nước vào cái ly. Đến lúc niệm vững chắc đủ làm duyên cho thánh đạo, lúc đó niệm xứ là chánh niệm.
Chỉ có niệm xứ vững chắc mới có chánh định. Dù chứng những bậc thiền chỉ đến tứ thiền cũng chưa gọi là có chánh định. Đây là điểm người học đạo cần lưu ý. Chứng thiền và có năng lực siêu nhân như Devadatta ( người xúi giục A Xà Thế thả voi điên để giết Phật) chưa có chánh định . Người học đạo có trí tuệ nên phát triển niệm xứ đến mức độ vững chắc, sau đó mới nên phát triển thiền chỉ, vì sự đắc thiền giả thường xảy ra do không đủ niệm để kiểm soát những nimitta.

Trong thiền định, yếu tố niệm và tuệ là nòng cốt của Tứ niệm xứ. Nếu không phát triển niệm xứ thì tưởng và hành sẽ lôi cuốn hành giả. Một số hành giả do tưởng quá mạnh khi thực hành đã có khả năng thấy được các loại phi nhân như chư thiên, ngạ quỷ … Không phải thấy khi nhắm mắt mà thấy lúc sinh hoạt bình thường. Cái thấy này không xuất phát từ thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, mà do sự phóng đại của tưởng từ những nimitta (ấn chứng) trong thiền. Đây là trạng thái của người mơ trong lúc đang thức. Cái thấy này vì không có niệm xứ nên không có trí tuệ và chỉ sinh ra ái, mạn và tà kiến. Nguy hại thêm nếu duy trì lâu dài sẽ có vấn đề về tâm thần.

Nhận định:
- Sách do các thiền sư Nam truyền viết là những tài liệu giá trị. Quan trọng là người đọc hiểu đúng hay không?
- Không có pháp môn nào gọi là niệm thân, niệm thọ riêng biệt. Chỉ có pháp môn Tứ niệm xứ. Các thiền sư hướng dẫn niệm thân hoặc niệm thọ vì thấy đó là điểm nổi bật. Nhưng ba niệm xứ còn lại cũng không bị loại trừ.
- Sau khi học các thiền sư, hành giả phải trở về với Tứ niệm xứ của Đức Phật, vì lục căn là sáu cửa trong năm uẩn có thể phát sinh bất cứ lúc nào khi có điều kiện. Năm thủ uẩn sinh hoặc không sinh cũng từ đó
- Sự phát triển niệm xứ không phải chỉ lúc ngồi, ngay trong đời sống hằng ngày phải có niệm xứ. Tất cả oai nghi, động, tịnh đều là dịp để có niệm xứ.

 

Bài viết năm 2020 khác